Bài Hành
Bài
Hành cũng được hiểu là Hành Vô Hành.
Chữ Hành đầu tiên là khái
niệm và bản chất của Hành động, chữ Vô là chân lý vạn vật trong Hành động, chữ
Hành cuối cùng là chân lý giác ngộ trong Hành động.
7.1.
Khái niệm về Hành
“Hành là quá trình từ
duyên hợp sinh khởi ra pháp thiện hay pháp ác”.
Hành là quá trình tương
tác không ngừng nghỉ giữa các hình tướng từ hạt năng lượng tận cùng cho đến vạn
vật trong và ngoài vũ trụ, trời và người.
Hành của chữ nhân được
sinh khởi sau khi thân tướng của ta tương tác với các giả tướng bởi đôi tai ta
nghe, đôi mắt ta nhìn, mũi ta ngửi, thân thể ta cảm nhận thấy, để rồi trí tuệ
định hay không định vào các giả tướng đó mà dẫn đến hành động hay không hành
động tạo ra thiện pháp hay ác pháp.
Pháp thiện hay pháp ác
chính là kết quả, là hình tướng mới bởi sự duyên hợp của hình tướng trước tương
tác với nhau thông qua quá trình hành mà tạo ra.
7.2.
Bản chất của Hành
Hành bao gồm hành động
hay không hành động, hành động tạo nghiệp hay hành động tạo thiện phước, không
hành động tạo nghiệp hay không hành động tạo thiện phước.
Hành được chia ra làm hai
loại: nội hành và ngoại hành. Nội hành thì luôn luôn tồn tại và vận động trong
mỗi chỉnh thể hình tướng. Ngoại hành thì luôn luôn tồn tại và vận động trong sự
tương tác giữa các hình tướng, thân tướng riêng biệt khác thông qua cơ chế liên
kết dây.
7.2.1.
Nội hành
Nội hành của chữ nhân là
quá trình xung đột, đấu tranh, luận bàn giữa tướng Trí tuệ và tướng Tâm trong
tam hợp nhân của mỗi chữ nhân.
Nội hành diễn ra bên
trong nội tại của mỗi hình tướng, nó luôn luôn diễn ra dù hình tướng đó chuyển
hóa thành hình tướng mới mà vẫn không ngừng nghỉ diễn ra quá trình nội hành.
Bởi hạt năng lượng tận cùng luôn luôn vận động bởi mã sóng trí tuệ và trạng thái
năng lượng nên khi nó liên kết tạo ra các hình tướng mới thì trong nội tại của
các hình tướng mới cũng nội hành.
Khi thân tướng của chúng
ta tương tác với vạn vật trời người thông qua đôi mắt ta nhìn thấy, đôi tai ta
nghe thấy, mũi ta ngửi thấy, thân thể ta cảm nhận thấy, sẽ khiến cho trí tuệ và
tâm tương tác xung đột, tranh luận để định hay không định vào các giả tướng đó,
chuyển hóa thành lợi ích cho mọi người hay chỉ vì lợi ích của chính ta. Quá
trình tương tác tranh luận, đấu tranh, xung đột giữa Trí tuệ và Tâm sẽ cho ra 3
hệ tư tưởng, đó chính là kết quả của nội hành. Cũng có thể hiểu nội hành là đưa
ra được hệ tư tưởng.
a)
Hệ tư tưởng tiêu cực
Hệ
tư tưởng tiêu cực là hệ tư tưởng chỉ lợi cho thân tướng của chính ta mà gây tổn
thương đến lợi ích của mọi người và vạn vật trời người, đó là lợi ta mà hại
người.
Hệ
tư tưởng tiêu cực là kết quả của cuộc đấu tranh giữa tâm và trí tuệ, đó là cuộc
đấu tranh mà trí tuệ u mê giành thắng lợi, trí tuệ u mê giành thắng lợi vì trí
tuệ định vào các giả tướng mà không thấy chân tướng thật sự của giả tướng, trí
tuệ u mê giành thắng lợi là vì năng lượng của chân tâm không đủ mạnh để dẫn dắt
trí tuệ theo chân tâm. Do trí tuệ u mê chiến thắng, trong khi đó trí tuệ u mê
không thấu hiểu chân lý vạn vật của trời người, không tin và thấu hiểu luật
nhân quả, lại càng không thấu hiểu về chân lý giác ngộ nên hệ tư tưởng tiêu cực
sẽ luôn đi ngược lại chân lý vạn vật, đi ngược lại nhân quả, đi ngược lại sự
giác ngộ.
Hệ
tư tưởng tiêu cực sẽ dẫn đến suy nghĩ trong trí tuệ luôn luôn có tư tưởng hành
động tạo nghiệp để trục lợi về mình và không hành động giúp đỡ mọi người.
Hệ
tư tưởng tiêu cực là hiểm họa cho chính ta, cho nhân loại, cho toàn bộ trong và
ngoài vũ trụ trời người, bởi nó luôn khiến nhân loại đi vào con đường mê tín dị
đoan, chiến tranh dân tộc, chiến tranh tôn giáo mà lừa hại, giết hại lẫn nhau.
Có
người khi thấy mình có bằng cấp cao, có học hàm học vị, khi đó trí tuệ họ định
vào bằng cấp và sự trọng vọng, họ coi họ là cao quý hơn người, khi đó trí tuệ
họ chiến thắng tâm nên họ có hệ tư tưởng coi thường người nghèo, không giao
tiếp hay thậm chí là khinh khi người không có bằng cấp cao sang như họ, đó là
hệ tư tưởng tiêu cực. Có người thấy mình nghèo, không giàu có, họ nhìn cuộc
sống của những người giàu có khiến cho trí tuệ họ định vào việc phải giàu có
bằng mọi cách, trí tuệ họ chiến thắng tâm và dẫn đến việc họ suy tính con đường
làm giàu bất chấp mọi thủ đoạn vi phạm pháp luật và gây họa cho mọi người, đó
là hệ tư tưởng tiêu cực. Có người vì học nhiều kinh điển tôn giáo, trí tuệ định
vào việc mình đọc, mình hiểu biết, khi trí tuệ đọc và học những lý luận đi
ngược lại quy luật tự nhiên, ngược chân lý vạn vật, ngược sự giác ngộ mà không
nhận thấy nó là sai; khi trí tuệ đã định vào kinh điển nên tâm không dẫn dắt
được trí tuệ thấu hiểu chân lý vạn vật, do đó trí tuệ không phân biệt được đúng
hay sai, nhất nhất tin theo dẫn đến ích kỷ về mình mà gây họa cho mọi người…Đó
là sự chiến thắng của trí tuệ u mê, họ luôn nghĩ hành động tạo nghiệp để trục
lợi về mình và không hành động giúp đỡ mọi người.
b)
Hệ tư tưởng thỏa hiệp
Hệ
tư tưởng thỏa hiệp là tư tưởng không thiện cũng không ác, là nửa tin nửa không
tin vào giai đoạn ban đầu của quá trình duyên hợp, sau đó nó sẽ chuyển hóa
thành tư tưởng tiêu cực hoặc là tư tưởng tích cực.
Hệ
tư tưởng thỏa hiệp là kết quả đấu tranh ban đầu của trí tuệ và tâm, khi đó trí
tuệ chưa đủ sức mạnh của sự u mê và tâm vẫn có sức mạnh để hai yếu tố này giằng
co. Cũng có thể hiểu quá trình đấu tranh mà tâm đã thuyết phục được trí tuệ hãy
tạm thời nghe theo tâm, tạm thời không định vào giả tướng để chiêm nghiệm và
kiểm chứng để tìm ra sự thật của các giả tướng, tạm thời tin nhân quả để thấu
hiểu chân lý vạn vật, thấu hiểu lợi ích của giác ngộ. Kết quả có được hệ tư
tưởng thỏa hiệp này chỉ tồn tại thời gian ban đầu, nếu tâm có sức mạnh chứng
minh được cho trí tuệ thì sẽ chuyển thành hệ tư tưởng tích cực, nếu tâm không
đủ sức mạnh chứng minh cho trí tuệ thấu hiểu, lại để trí tuệ định vào giả tướng
thì sẽ chuyển hóa thành hệ tư tưởng tiêu cực.
Hệ
tư tưởng thỏa hiệp thì trí tuệ sẽ có suy nghĩ tạm thời không hành động tạo
nghiệp và cũng không hành động tạo phước, luôn nghĩ để một thời gian xem thế
nào.
Hệ
tư tưởng thỏa hiệp là sự khởi đầu cho sự hòa bình nhân loại, là sự khởi đầu cho
nhân loại tin và hành theo chân lý vạn vật, tin và hành theo nhân quả, tin và
hành theo chân lý giác ngộ.
Khi
có hai quốc gia xảy ra chiến tranh, họ thấy sự thương vong của binh lính và vô
số người dân, họ thấy kinh tế ngày càng đi xuống, họ thấy nguy cơ hủy diệt, họ
tiến hành mở các cuộc họp đàm phán, và trải qua các cuộc đàm phán dẫn đến hiệp
định thỏa hiệp. Như vậy lợi ích ban đầu đã đạt được là chấm dứt gây thương vong
cho nhân dân hai nước, và tiếp theo có thể sẽ chấm dứt hoàn toàn hoặc lại tiếp
diễn chiến tranh. Có người khi đọc kinh điển, trí tuệ được tâm dẫn dắt nên chưa
tin vào kinh điển, tâm và trí thống nhất là hãy quan sát nhân quả, quy luật tự
nhiên xem kinh điển đó có đi ngược lại quy luật tự nhiên và nhân quả không, rồi
xem nó có giác ngộ để mang lại lợi ích cho mọi người không, do đó trí tuệ đồng
ý thỏa hiệp và dành thời gian quan sát để đi đến quyết định cuối cùng. Có người
nghe một người thầy giảng triết lý sống, tâm dẫn dắt trí tuệ hãy nghe một thời
gian xem sao, thời gian nghe hãy phân tích xem có đúng với chân lý vạn vật và
giác ngộ chuyển hóa lợi ích cho mọi người không, cho nên thời gian nghe kiểm
chứng có đúng không, đó là thỏa hiệp ban đầu…Hệ tư tưởng thỏa thiệp luôn có suy
nghĩ tạm thời ngừng hành động tạo nghiệp và không hành động tạo phước thiện.
c)
Hệ tư tưởng tích cực
Hệ
tư tưởng tích cực là hệ tư tưởng tiến bộ, nó luôn luôn vì lợi ích mọi người và
vạn vật trời người mà không màng đến lợi ích của riêng ta.
Hệ
tư tưởng tích cực là kết quả giành chiến thắng của chân tâm sau quá trình đấu
tranh xung đột, tranh luận giữa trí tuệ và tâm. Tâm giành chiến thắng là bởi vì
tâm có năng lượng sức mạnh của chân tâm để dẫn dắt được trí tuệ tin vào nhân
quả, thấu hiểu chân lý vạn vật, thấu và thấy được lợi ích của chân lý giác ngộ.
Hệ tư tưởng tích cực có được là do quá trình thỏa hiệp và giành thắng lợi của
tâm, và cũng do tâm có sức mạnh bởi nhiều đời nhiều kiếp tu hành hành thiện
giúp đỡ mọi người và vạn vật trời người. Hệ tư tưởng tích cực không những tâm
giành chiến thắng mà còn truyền được cho trí tuệ sự giác ngộ, để cả tâm và trí
tuệ cùng hợp nhất hành đạo tuân thủ nhân quả và chuyển hóa thành lợi ích cho
trời người mà không màng gì đến thân tướng của ta.
Hệ
tư tưởng tích cực sẽ giúp cho trí tuệ chúng ta luôn suy nghĩ phải hành động cứu
giúp mọi người và vạn vật trời người, không hành động tạo nghiệp hay gây tổn
thương đến mọi người cũng như vạn vật trời người.
Hệ
tư tưởng tích cực là sức mạnh của sự đoàn kết, là sức mạnh để bài trừ đi chiến
tranh, sự phân biệt tôn giáo, sắc tộc, bài trừ đi mê tín dị đoan, là sức mạnh
của tình yêu thương bao la giữa người với người, giữa người với vạn vật trời
người, là sức mạnh để duy trì sự sống của trong và ngoài vũ trụ trời người.
Những
bậc chính trị gia khi họ có được hệ tư tưởng tích cực khi tâm đã dẫn dắt được
trí tuệ đạt đến sự giác ngộ để xây dựng quốc gia vững mạnh về mọi mặt, họ luôn
hướng đến sự hóa giải mọi xung đột dân tộc bằng hòa bình, họ không để chiến
tranh xảy ra, họ chấp nhận hy sinh lợi ích riêng để cho dân tộc họ và dân chúng
các quốc gia khác không lâm vào chiến tranh giết hại, do đó họ luôn xây dựng
cho mình tư tưởng chính sách không hành động gây chiến tranh và dùng mọi hành
động ngoại giao để tránh chiến tranh. Có người giàu có, tâm họ có sức mạnh dẫn
dắt trí tuệ không định và có được trí tuệ giác ngộ chân lý vạn vật và giác ngộ
nên họ có hệ tư tưởng giúp đỡ người nghèo, giúp đỡ dân chúng khắp nơi bị thiên
tai hoặc dịch bệnh, họ luôn hướng đến hành động giúp đỡ mọi người và không hành
động tạo nghiệp. Những người tu hành giác ngộ, do tâm họ đủ sức mạnh dẫn dắt
trí tuệ có được sự giác ngộ, họ luôn có hệ tư tưởng hy sinh lợi ích riêng để
mang lại lợi ích cho mọi người và chúng sinh, họ luôn hướng đến hành động giúp
đỡ mọi người và chúng sinh, không hành động tạo nghiệp.
Cả
ba hệ tư tưởng trên đều là kết quả của quá trình tương tác, xung đột, đấu tranh
của trí tuệ và tâm, nó là kết quả của quá trình nội hành. Sau khi có kết quả
nội hành sẽ chuyển hóa thành ngoại hành.
7.2.2.
Ngoại hành
Ngoại
hành là quá trình tương tác của thân tướng ta bởi mắt mũi tai miệng chân tay
với hình tướng vạn vật xung quanh, kết quả của quá trình ngoại hành sẽ tạo ra
pháp thiện hay ác, hay nói cách khác là tạo ra hình tướng vạn vật mới.
Ngoại
hành chính là quá trình tiếp diễn sau khi có kết quả nội hành là ba hệ tư
tưởng, từ ba hệ tư tưởng này sẽ chuyển hóa thành 3 nhóm hành động.
a)
Ngoại hành tiêu cực
Vì
đã có hệ tư tưởng tiêu cực sau quá trình nội hành cho nên sẽ luôn dẫn đến ngoại
hành tiêu cực. Ngoại hành tiêu cực là trí tuệ u mê điều hành thân tướng hành
động mang lại lợi ích ích kỷ cho mình mà gây tổn hại đến lợi ích mọi người và
vạn vật trời người. Là không hành động giúp đỡ mọi người và bảo vệ lợi ích ích
kỷ cho bản thân mình.
Người
mà ngoại hành tiêu cực sẽ luôn khiến cho vạn vật trời người tổn thương, họ luôn
hành động đi ngược lại chân lý vạn vật, ngược lại quy luật tự nhiên, ngược lại
quy luật nhân quả, ngược lại sự giác ngộ giúp đỡ nhau tu hành. Ngoại hành tiêu
cực luôn luôn sinh khởi và hành động gây ra chiến tranh giết hại để tranh giành
lợi ích ích kỷ, luôn luôn lừa hại nhau để tranh giành tiền tài lợi ích về mình,
luôn phân tầng giai cấp, luôn luôn bày đặt lễ nghi làm mê hoặc người dân, luôn
sát sinh, tà dâm, thông dâm…
Có
người vì có được hệ tư tưởng sau quá trình nội hành là xây dựng đế chế địa vị
chính trị cho gia đình và dòng họ, họ có chức sắc trong tầng lớp thống trị, họ
hành động đưa hết người nhà vào làm các chức sắc quan trọng, họ không quan tâm
đến lợi ích của người dân, họ chỉ vì lợi ích gia đình và dòng họ của họ. Có
người vì không giàu có, họ có hệ tư tưởng làm giàu bằng mọi giá, dẫn đến ngoại
hành là họ buôn bán ma túy, buôn bán những thứ mang lại giàu sang mà vi phạm
pháp luật và gây tổn hại cho mọi người. Có người đọc nhiều kinh điển và định
vào đi tu để giải thoát, họ hình thành hệ tư tưởng giải thoát đi ngược quy luật
tự nhiên là từ bỏ gia đình để xuất gia đi tu, và họ hành động là từ bỏ gia đình
để đi tu, như thế là họ hành động tạo nghiệp là bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa
đối với mọi người thân mà chỉ để thỏa mãn sự ích kỷ của mình không phải chịu
khổ đau và sự ràng buộc nơi thân tướng họ…
b)
Ngoại hành thỏa hiệp
Vì
đã có hệ tư tưởng thỏa hiệp nên tâm và trí tuệ cùng thống nhất điều hành thân
tướng hành động mang tính thỏa hiệp là không hành thiện cũng không hành ác. Đó
là quan sát, học tập, lắng nghe, trải nghiệm trong một khoảng thời gian để
chứng thực cho trí tuệ tin và thấu hiểu chân lý vạn vật, nhân quả và lợi ích
chuyển hóa bởi sự giác ngộ. Quá trình ngoại hành thỏa hiệp sẽ dẫn đến sự chuyển
hóa sang ngoại hành tích cực hoặc chuyển sang ngoại hành tiêu cực.
Ngoại
hành thỏa hiệp sẽ mang lại lợi ích ban đầu cho nhân loại tránh gây ra chiến
tranh, giúp cho con người không đi vào mê lầm của sự mê tín dị đoan, giúp cho
con người thay đổi và thấu hiểu được chân lý vạn vật và hành động chuyển hóa
lợi ích cho vạn vật trời người bằng sự giác ngộ.
Các
tổ chức liên minh quốc tế được lập ra cũng là để đàm phán, thỏa hiệp và tìm ra
lợi ích chung cho mọi quốc gia tham gia. Một người khi nghe một người khác
thuyết giảng về chân lý cuộc sống hay đọc các kinh điển về tu hành giải thoát,
họ nửa tin nửa không tin, họ sẽ không hành động phản bác hay hành động tin
ngay, họ quan sát và trải nghiệm thực tế xem có đúng với quy luật tự nhiên hay
đi ngược quy luật tự nhiên; khi họ đã kiểm chứng và lúc đó họ sẽ chuyển hóa
thành ngoại hành tích cực là tin và hành theo nếu chân lý đó vì đúng với quy luật
tự nhiên; họ sẽ phản bác nếu nó không đúng quy luật tự nhiên, hoặc nếu không đủ
chứng minh thì họ sẽ không hành theo.
c)
Ngoại hành tích cực
Vì
đã có hệ tư tưởng tích cực sau quá trình nội hành, do đó tâm và trí tuệ sẽ hợp
nhất để điều hành thân tướng ngoại hành là luôn hành động giúp đỡ mọi người và
không hành động tạo nghiệp lực gây tổn thương đến mọi người và vạn vật trời
người. Ngoại hành tích cực là độ người mà không màng đến lợi ích của ta.
Ngoại
hành tích cực sẽ luôn mang lại sự sống và tình yêu thương đoàn kết cho toàn bộ
nhân loại và vạn vật vũ trụ trời người, đó là vô số hành động tuân thủ luật
nhân quả vì thấu hiểu chân lý vạn vật và chuyển hóa thành lợi ích cho mọi
người, đó là không hành động gây tổn thương mọi người và vạn vật trời người.
Ngoại
hành tích cực là không kích động chiến tranh, bài trừ mê tín dị đoan, chia sẻ
khó khăn và giúp đỡ nhau, cùng nhau đoàn kết tu hành tinh tấn đúng với sứ mệnh
tu hành dưới nhân gian để cùng nhau cải tạo thành công bộ lọc năng lượng trong
trụ linh của tuệ linh để hoàn thành con đường giác ngộ viên mãn.
Như
vậy bản chất của Hành chính là quá trình cải tạo thế giới quan vũ trụ tốt đẹp
hơn hay là phá hoại thế giới quan, đó là quá trình duy trì phát triển sự sống
hay là phá hủy sự sống trong và ngoài vũ trụ trời người. Hành chính là quá
trình giữa gieo nhân và gặt quả, hay còn gọi là quá trình giữa duyên và nghiệp.
7.3. Chân lý vạn vật –
Vô (Duyên)
Chân
lý vạn vật là:“Vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài vũ trụ không tự
sinh ra, không tự mất đi, khổ đau không tự đến, khổ đau không tự đi, tất cả do
duyên nghiệp hay còn gọi là nhân quả”.
Như
vậy ứng dụng chân lý vạn vật trong Hành sẽ là: “Nội hành hay ngoại hành không
tự sinh ra, không tự mất đi, khổ đau không tự đến và không tự đi, tất cả do
duyên nghiệp hay còn gọi là nhân quả”.
Chân
lý vạn vật chính là luật nhân quả, chính là chữ Vô, Vô là tướng không, vì nó
không bất tử, vì nó không vĩnh cửu, vì nó không trường tồn, nó chỉ tồn tại
trong khoảng thời gian nhất định rồi lại chuyển hóa sang tướng khác do duyên.
Do đó chân lý vạn vật, luật nhân quả được đúc kết thành chữ duyên, duyên chính
là tướng không, không có cái gì là của ta, thân xác ta cũng không phải của ta,
mọi giả tướng không của ta, không của ai đó và bản thân giả tướng cũng không
phải của chính nó. Thấu hiểu chữ duyên thì ta sẽ thấu hiểu được căn nguyên của
nội hành và ngoại hành, của hành động hay không hành động, để rồi giác ngộ
chuyển hóa thành hành động duy trì cải tạo sự sống khắp vũ trụ tốt đẹp hơn,
không hành động gây tổn thương đến sự sống vũ trụ trời người.
7.3.1.
Căn nguyên của nội hành
Do
mỗi chữ nhân là sự hợp nhất của 3 yếu tố là thân tướng, trí tuệ, tâm, tâm được
ví như là người sinh sống trong ngôi nhà thân tướng, trí tuệ là cánh cửa để tâm
đi ra quan sát và truyền lại sự thật về thế giới quan cho trí tuệ để có được sự
giác ngộ. Hệ tư tưởng là kết quả của quá trình nội hành, mà nội hành trong mỗi
chữ nhân chính là sự đấu tranh xung đột giữa trí tuệ và tâm do quá trình tương
tác với giả tướng vạn vật trời người để tạo ra hệ tư tưởng. Trí tuệ thì định
vào giả tướng mà không thấu hiểu được cội nguồn và tướng không của giả tướng
nên u mê. Tâm thì chính là tuệ linh ở các cõi trời khác xuống luân hồi đầu thai
vào con người để tu hành, hoặc linh hồn của các con thú được thuần hóa chuyển
sinh đầu thai, dù là tuệ linh hay linh hồn thì họ đều tồn tại ở trạng thái năng
lượng âm dương cân bằng. Các tuệ linh là những trạng thái năng lượng có sự cân
bằng âm dương và có trí tuệ bậc nhất trong vũ trụ, do đó họ thấu hiểu được
tướng không của vạn vật nên dùng mọi phương tiện để dẫn dắt trí tuệ thấu hiểu để
cùng hợp nhất hành đạo tu hành cải tạo trụ linh của tuệ linh thành bộ lọc năng
lượng. Tùy theo sức mạnh năng lượng của tâm có thể dẫn dắt chứng minh cho trí
tuệ tin vào nhân quả, chân lý vạn vật và lợi ích của sự chuyển hóa giác ngộ để
cải tạo thế giới quan thành nội hành tích cực hay không đủ sức mạnh dẫn dắt trí
tuệ mà chuyển thành nội hành tiêu cực.
Như
vậy do duyên hợp bởi vạn vật giả tướng với thân tướng của ta mà trí tuệ và tâm
diễn ra quá trình đấu tranh xung đột để tìm ra 1 trong 3 hệ tư tưởng của nội
hành, kết quả tìm ra được hệ tư tưởng nào lại phụ thuộc vào sức mạnh của tâm và
sự thấu hiểu của trí tuệ định hay không định vào giả tướng. Nội hành của hạt
năng lượng là do sự tương tác giữa các hạt năng lượng với nhau. Do đó nội hành
nó không tự nhiên sinh ra, và nó là quá trình đấu tranh khắc nghiệt của vô số
con người và vạn vật trời người không ngừng nghỉ nhằm tìm ra các phương pháp ưu
việt nhất để duy trì và phát triển sự sống khắp trong và ngoài vũ trụ.
Do
đó nhìn vào mục đích hành động của mỗi chữ nhân sẽ biết được quá trình nội hành
sinh khởi ra hệ tư tưởng nào, từ đó ta cũng có thể thấu hiểu để từng bước cải
tạo những nội hành tiêu cực và kích thích phát triển nội hành tích cực.
7.3.2.
Căn nguyên của ngoại hành
Căn
nguyên của ngoại hành là nội hành, tức là ngoại hành được sinh khởi sau khi có
kết quả của quá trình nội hành là sinh ra 3 hệ tư tưởng. Bởi ngoại hành là sự
hành động của thân tướng tương tác với vạn vật trời người thông qua sự chỉ đạo
độc đoán của trí tuệ hay có sự hợp nhất dẫn dắt trí tuệ của tâm. Ngoại hành là
thành quả của nội hành. Vạn vật, sự việc, hiện tượng hiện hữu hay phản chiếu
đều là kết quả của quá trình nội hành và ngoại hành.
Khi
ta nhìn vào những thành tựu của nhân loại như sự xuất hiện của các bậc giác
ngộ, sự xuất hiện của những bậc hiền triết, những bậc thánh nhân đã tạo ra giá
trị sống nhân văn đạo đức, bài trừ chiến tranh, bài trừ mê tín dị đoan, mang
lại ánh sáng sự thật của vũ trụ trời người cho nhân loại, mang lại sự giải
thoát khỏi khổ đau bởi khổ đau do quy luật tự nhiên và khổ đau tại tâm, thì đó
là kết quả của quá trình hành mang tính đấu tranh khắc nghiệt trong chính bản
thân mỗi chữ nhân với toàn bộ vạn vật trời người. Do đó khi nhìn vào các thành
quả của nhân loại thì ta đều nhận thấy đó là kết quả của quá trình hành tiến bộ
tích cực; hoặc nhìn vào những thảm họa chiến tranh, những tệ nạn xã hội, những
tham sân si của nhân loại thì đó là kết quả của quá trình hành tiêu cực.
Thông
qua chân lý vạn vật, ta thấy tướng không của Hành, hành không bất tử hay trường
tồn, bởi hành là quá trình chuyển hóa từ giả tướng này sang giả tướng khác do
quá trình tương tác của các giả tướng. Hành chính là quá trình của Nhân và Quả,
hay gọi là Duyên và Nghiệp.
Vì
Hành cũng là tướng không nên 3 hệ tư tưởng trong hành là tiêu cực, thỏa hiệp
hay tích cực cũng không bất tử, nó sinh ra do duyên và hoại diệt do duyên. Vì
nó là tướng không nên mỗi chữ nhân và toàn bộ trời người phải nắm bắt được sự
thật này để gieo duyên bằng chân tâm nhằm cải tạo và chuyển hóa từ hành tiêu
cực chuyển sang hành tích cực, và cùng nhau duy trì hành tích cực để mang lại
sự sống ngày càng tốt đẹp của toàn bộ trời người.
7.4. Chân lý giác ngộ
Chân lý giác ngộ là: “À,
đời là bể khổ. Chúng sinh phải dùng chân tâm, đối mặt giác ngộ giải thoát hết
tất cả các khổ đau trong và ngoài vũ trụ, trời và người”.
Dùng
chân lý giác ngộ trong Hành là: “Hành là bể khổ, chúng sinh phải dùng chân tâm
đối mặt, giác ngộ giải thoát hết tất cả các khổ đau”. Hành ở đây bao gồm là nội
hành và ngoại hành, dù là nội hành hay ngoại hành đều là bể khổ cả, chỉ có dùng
chân tâm để giải thoát hết khổ đau của nội hành và ngoại hành.
Nội
hành là bể khổ, khổ vì nó vẫn là giả tướng, nó do duyên sinh và do duyên diệt,
nó khổ vì phải đấu tranh xung đột giữa tướng trí tuệ và tướng tâm để ra được hệ
tư tưởng tích cực hay tiêu cực, để hành động hay không hành động. Nội hành
chính là đấu tranh nội tâm, mà tâm phải dùng tất cả năng lượng để đấu tranh và
dẫn dắt trí tuệ, cuộc đấu tranh của nội hành nó không chỉ xảy ra một lần trong
một kiếp người, mà nó diễn ra liên tục, từng giây phút của cuộc đời, cho đến
khi thoát tục cõi trần này mà chuyển sang nội hành của chính tuệ linh. Nội hành
đã là bể khổ rồi thì dù có hành động tạo nghiệp hay không hành động tạo nghiệp,
dù có hành động tạo phước hay không hành động tạo phước thì vẫn là khổ, khổ vì
đối diện và đón nhận tất cả các kiếp nạn khổ đau để thông qua nó mà tìm ra chân
lý vạn vật, thấu hiểu nhân quả và giác ngộ để đưa ra được hệ tư tưởng tích cực
nhằm dẫn đến ngoại hành cải tạo thế giới quan tốt hơn. Khi có được hệ tư tưởng
tích cực để cải tạo thế giới quan tốt hơn thì việc cải tạo được thế giới quan
xung quanh ta sẽ giúp cải tạo được trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Nội hành
sẽ càng khổ đau trong vô lượng kiếp nếu quá trình đấu tranh giữa tâm và trí tuệ
tạo ra hệ tư tưởng tiêu cực để dẫn đến tạo nghiệp lực thì sẽ bị đọa trong sinh
tử luân hồi vô lượng và gặp vô số kiếp nạn khổ đau, để rồi không tìm ra con
đường giải thoát khỏi luân hồi, thậm chí là hoại diệt cả tuệ linh.
Ngoại
hành là bể khổ, khổ là vì để có được ngoại hành thì đã phải trải qua quá trình
nội hành đầy khắc nghiệt, khi có được ngoại hành thì thân tướng phải chấp nhận
hy sinh lợi ích cá nhân, không màng hiểm nguy để hành đạo tạo phước cho mọi
người và không hành đạo gây tổn thương trời người. Khi hệ tư tưởng tích cực dẫn
dắt thân tướng ngoại hành thì đó là sự hi sinh lớn lao của thân tướng để mang
lại lợi ích cho mọi người và chúng sinh trời người. Ngoại hành sẽ càng khổ đau
khi bị hệ tư tưởng tiêu cực dẫn dắt để hành động tạo nghiệp và không hành động
giúp đỡ cải tạo trời người thì nghiệp báo đó sẽ bám theo trong nhiều đời nhiều
kiếp mà gặp phải vô số khổ đau kiếp nạn, nó sẽ làm cho nội hành trở nên dữ dội
mà khó tìm đến được hệ tư tưởng tích cực giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Nội
hành hay ngoại hành đều là bể khổ, chẳng có gì ngoài khổ, dù hành động tạo
nghiệp hay hành động tạo phước, dù không hành động tạo phước hay không hành
động tạo nghiệp cũng đều là khổ. Nhưng chỉ có con đường duy nhất cải tạo được
trụ linh của tuệ linh thành bộ lọc năng lượng là phải rời xa nghiệp lực và hành
động tạo phước để cải tạo chính ta và trời người sẽ giúp cho tuệ linh và chúng
sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi. Muốn hành tạo phước và không hành tạo nghiệp
thì phải dùng chân tâm đối mặt, thấu hiểu nhân quả, chân lý vạn vật và chân lý
giác ngộ để từng bước độ cho ta và độ cho chúng sinh trời người. Đó là Hành Vô
Hành.
Bài
hành này cũng là động lực để giúp cho chúng sinh không phải là đi bộ hay đi lùi
hay nghỉ nữa. Mà giúp chúng sinh chuyển sang thành chạy nước rút trên con đường
tiến đến đích của việc cải tạo trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn.