Bài Quả không
Bài Quả Không cũng được hiểu là Quả Không Vô
Quả Không
Bài
này bao gồm khái niệm, bản chất của Quả Không, chân lý vạn vật và chân lý giác
ngộ của Quả Không.
3.1. Khái niệm về Quả
Không
“Quả
Không là bộ lọc năng lượng viên mãn trong trụ linh của tuệ linh, là sự thấu
hiểu và vận hành chân lý vạn vật và chân lý giác ngộ, là đạo đức vô lượng”.
Quả
Không chính là bộ lọc năng lượng trong trụ linh của tuệ linh. Để có được bộ lọc
năng lượng viên mãn thì phải thấu hiểu và vận hành được chân lý vạn vật và chân
lý giác ngộ. Để thấu và vận hành được hai chân lý (bộ lọc năng lượng) thì phải
dùng cơ chế phân tách, liên kết hạt năng lượng để vận hành, bởi cơ chế này
chính là cơ chế vận hành cho cả hai chân lý.
Vận
hành hai chân lý đó là: cứu độ của hàng thánh nhân trong phạm vi quốc gia dân
tộc, cứu độ của hàng bồ tát trong phạm vi toàn nhân loại thế giới, phổ độ của
hàng phật trong phạm vi toàn nhân loại thế giới và hóa độ trời người bằng ánh
sáng nhiệm màu của hai chân lý. Đó là ánh sáng rực rỡ của siêu năng lượng màu
vàng và siêu năng lượng xanh ngọc lưu ly trong vũ trụ để độ cho chúng sinh trời
người trong sự không phân biệt.
Khi
thấu hiểu và hành bằng hai chân lý, vượt qua hết các kiếp nạn khổ đau khi tu
hành dưới nhân gian để đạt được bộ lọc năng lượng trong trụ linh của tuệ linh
thì được gọi là Quả Không.
3.2.
Bản chất của Quả Không
Bản
chất của Quả Không chính là phải thấu hiểu và hành theo hai chân lý. Thấu và
hành đúng mới đắc được Quả Không, nếu thấu mà không hành hoặc hành mà không
thấu thì không thể đắc được Quả Không.
Hai
chân lý đó là chân lý vạn vật và chân lý giác ngộ. Hai chân lý này bao trùm
toàn bộ vạn vật trong và ngoài vũ trụ, trời và người.
Việc
thấu hiểu hai chân lý chính là thấu hiểu cội nguồn của sự hình thành, bản chất,
cơ chế vận hành của hai chân lý.
Hành
theo hai chân lý chính là dùng hai chân lý này để xây dựng khuôn mẫu đạo đức
trong bốn biểu hiện hình tướng đạo. Đó là không vi phạm luật nhân quả và đạt
được luật giác ngộ trong bốn biểu hiện hình tướng đạo của bài Đạo. Do đó Quả
Không là thành quả của việc vận dụng hai chân lý để vận hành hình tướng và tâm
tướng đạo.
3.2.1.
Thấu hiểu chân lý vạn vật
Chân
lý vạn vật là: “Vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài vũ trụ không tự
nó sinh ra, không tự nó mất đi, khổ đau không tự đến, khổ đau không tự đi. Tất
cả do duyên và nghiệp, hay còn gọi là nhân và quả”.
Bản
chất của chân lý vạn vật (chân lý nhân quả):
Trước
tiên, ta phải hiểu bản chất của chân lý. Chân lý chính là lý luận gốc nhất, lý
luận chân thật nhất, là sự thật không thể sai.
Vạn
vật, sự việc, hiện tượng bên trong và bên ngoài vũ trụ, ta phải hiểu đó là từ
các yếu tố cấu thành hạt năng lượng tận cùng cho đến sự hiện hữu của cả vũ trụ.
Chân
lý vạn vật (nhân quả) chính là lý luận gốc nhất, thật nhất, đúng nhất của vạn
vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài vũ trụ. Tức là không có vạn vật nào, sự
việc nào, hiện tượng nào dù bên trong hay bên ngoài vũ trụ, nằm bên ngoài chân
lý vạn vật. Tất cả đều nằm trong chân lý vạn vật, hay có thể nói, chân lý vạn
vật nằm trong chính mỗi vật của tất cả vạn vật, trong mỗi sự việc của tất cả sự
việc, trong mỗi hiện tượng của tất cả hiện tượng bên trong và bên ngoài vũ trụ.
Chân
lý vạn vật là của vạn vật chứ không phải của một ai hay của tôn giáo nào, cũng
như của kinh kệ nào. Chân lý vạn vật là cái có sẵn, là cơ chế, bản chất vận
hành của vạn vật, sự việc, hiện tượng bên trong và bên ngoài vũ trụ. Do đó, chỉ
có tuệ linh hay con người thấu hiểu cơ chế, bản chất vận hành trong vạn vật, sự
việc, hiện tượng bên trong và bên ngoài vũ trụ mà phân tách, liên kết, tổng hợp
thành chân lý. Chân lý luôn luôn phải đúng khi áp dụng và kiểm chứng với mỗi
vật trong vạn vật, với mỗi sự việc trong tất cả sự việc, với mỗi hiện tượng
trong tất cả hiện tượng của bên trong và bên ngoài vũ trụ.
Trong
chân lý vạn vật cho thấy tất cả vạn vật, sự việc, hiện tượng bên trong và bên
ngoài vũ trụ đều không tự nó sinh ra. Đó là do cơ chế phân tách, chụp chiếu
(liên kết dây) để sinh ra vạn vật, sự việc, hiện tượng mới. Tức là phải có điều
kiện môi trường cho quá trình phân tách, liên kết để sinh ra vạn vật, sự việc,
hiện tượng bên trong và bên ngoài vũ trụ. Đó là điều kiện môi trường khi có sự
tương tác giữa các chỉnh thể, có áp lực, sức nén của năng lượng từ các chỉnh
thể, có sự truyền dẫn dinh dưỡng (năng lượng) vào chỉnh thể, có liên kết dây
giữa các chỉnh thể bằng sợi mã sóng trí tuệ, phải có môi trường sinh nhiệt
(sóng điện âm hay dương hay trung tính có liên kết dây). Như vậy, vạn vật, sự
việc, hiện tượng không tự nó sinh ra, mà phải có cơ chế phân tách, chụp chiếu
và điều kiện môi trường tương tác giữa các chỉnh thể.
Vạn
vật, sự việc, hiện tượng cũng không tự nó mất đi. Sự mất đi cần phải được hiểu
là từ sự chuyển hóa từ hình tướng này sang hình tướng khác (chuyển hóa này
không gọi là chết, vì nó vẫn còn mã sóng trí tuệ trong chỉnh thể) cho đến cái
chết vĩnh viễn của chỉnh thể là không còn mã sóng trí tuệ trong hạt năng lượng.
Không tự chỉnh thể mất đi là do quá trình đứt liên kết dây và phân rã của vạn
vật, sự việc, hiện tượng trong quá trình tương tác. Vạn vật, sự việc, hiện tượng
chỉ hoại diệt (chết vĩnh viễn) khi bị số lượng hạt năng lượng hoại diệt xâm
nhập gây nổ hủy diệt hoàn toàn và không còn mã sóng trí tuệ. Vạn vật, sự việc,
hiện tượng, chuyển hóa hình tướng mà vẫn còn mã sóng trí tuệ thì chưa được gọi
là cái chết.
Bản
chất của khổ đau của vạn vật, sự việc, hiện tượng bên trong và bên ngoài vũ
trụ, trời và người là quá trình bí bách, đấu tranh, xung đột duy trì sự tồn tại
của mã sóng trí tuệ. Khổ đau từ việc thay đổi cấu trúc mã sóng trí tuệ và trạng
thái năng lượng cho đến cái chết vĩnh viễn. Cái chết vĩnh viễn là không còn sự
tồn tại của mã sóng trí tuệ, dù là hạt năng lượng hoại diệt cũng là chết khi
không còn mã sóng trí tuệ do bị nổ tan.
Khổ
đau đến, khổ đau đi là do cơ chế phân tách, chụp chiếu và quá trình phân rã,
đứt liên kết hoặc gia tăng cấu trúc bền vững của mã sóng trí tuệ trong quá
trình tương tác của vạn vật, sự việc, hiện tượng từ hạt năng lượng cho đến bên
trong và bên ngoài vũ trụ, trời và người.
Bản
chất của duyên – nghiệp, nhân – quả hay bản chất chung của chân lý vạn vật được
kết tinh gọn thành một chữ. Đó là chữ “Duyên”. Cơ chế vận hành chữ Duyên (chân
lý nhân quả) chính là cơ chế phân tách, chụp chiếu (liên kết dây) đã phân tích
ở phần trước. Duyên có duyên trong duyên, duyên ngoại duyên.
-
Duyên là gì? Duyên chính là sự hợp mà thành. Đó là
quá trình hợp nhất của các yếu tố để cấu thành chỉnh thể từ hạt năng lượng cho
đến vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài vũ trụ, trời và người. Sự hợp
chính là thuyết tam hợp và cơ chế phân tách, chụp chiếu (liên kết dây). Hợp
chính là khả năng liên kết dây giữa các chỉnh thể có cùng sóng điện (sóng điện
âm với sóng điện âm, sóng điện dương với sóng điện dương, sóng điện trung tính
với sóng điện trung tính) và không cùng sóng điện (sóng điện âm với sóng điện
dương, sóng điện âm với sóng điện trung tính, sóng điện dương với sóng điện
trung tính). Hợp còn chính là sự cấu thành hạt năng lượng hoại diệt, dù hạt
năng lượng hoại diệt không có liên kết dây để cấu tạo thành vật chất, nhưng có
cơ chế phân tách và được vận hành chỉ bởi sóng rung và chỉnh thể hạt năng lượng
hoại diệt cũng là sự hợp bởi 3 yếu tố mà cấu tạo thành nó. Như vậy, hợp chính
là thuyết tam hợp và cơ chế phân tách, liên kết dây.
-
Duyên trong duyên: duyên trong duyên là việc ta biết
vạn vật ở hiện tại, chỉnh thể hiện tại, sự việc hiện tại, hiện tượng hiện tại,
con người hiện tại, bên trong và bên ngoài vũ trụ hiện tại. Khi biết cái hiện
tại rồi, ta sẽ đi tìm cái ở quá khứ, đó là những cái gì đã cấu tạo thành cái
hiện tại. Ta lại tiếp tục truy tìm những cái ở quá khứ của quá khứ cho đến tận
cùng. Để tìm được duyên trong duyên thì trước tiên ta phải thấu bản chất của
cái hiện tại, cái bản chất hiện tại sẽ biểu hiện ra hiện tượng, thấu hiểu hiện
tượng cũng chính là thấu hiểu bản chất hiện tại. Tiếp đến là ta phải thấu cơ
chế phân tách, chụp chiếu (liên kết dây) và nếu có khả năng thiền định nữa thì
sẽ khám phá và thấu hiểu thế giới quan vũ trụ trời người từ tận cùng hình thành
cho đến nay. Ví dụ: ta thấy ta, ta chính là một người, ta là hiện tại, ta sẽ
tìm hiểu cái gì sinh ra ta, ta tìm hiểu và ta biết là cha mẹ ta sinh ra ta, ta
tìm hiểu cha mẹ sinh ra ta như thế nào và ta biết. Ta lại tìm hiểu ta là ai?
Tâm ta như thế nào? Kiếp trước ta là ai? Muốn biết được thì ta phải thấu hiểu
bản chất của ta thông qua những biểu hiện và hành động để thấy tâm ta, ta phải
thấu hiểu cơ chế phân tách, chụp chiếu, thiền quán được thì ta sẽ thấu hiểu ta
là ai, kiếp trước ta là ai. Cứ áp dụng phân tích chữ duyên bằng cơ chế phân
tách, chụp chiếu ta sẽ thấu duyên trong duyên của ta. Đó chính là thấu cái hiện
tại để biết cái quá khứ của cái hiện tại.
-
Duyên ngoại duyên: duyên ngoại duyên là việc ta biết,
thấu hiểu bản chất thông qua hiện tượng được biểu hiện ra và quá trình đang
hành động tương tác của vạn vật, sự việc, hiện tượng, trời và người, trong và
ngoài vũ trụ tại hiện tại. Khi ta thấu hiểu cái hiện tại thì ta sẽ thấy cái
tương lai. Đó là biết cái duyên tương lai của cái duyên hiện tại, cái duyên
chính là chỉnh thể của vạn vật, sự việc, hiện tượng. Cái duyên tương lai là cái
hình tướng mới, chỉnh thể mới, vạn vật mới, hiện tượng mới, sự việc mới thông
qua cơ chế phân tách, chụp chiếu (liên kết dây).
Cội
nguồn của chân lý vạn vật:
Cội
nguồn của chân lý vạn vật không phải là thời điểm con người hay tuệ linh tìm ra
nó. Cội nguồn của chân lý vạn vật chính là sự khởi đầu và vận hành của cơ chế
vận hành chân lý vạn vật. Cơ chế đó chính là cơ chế phân tách, chụp chiếu (liên
kết dây).
Với
trí tuệ thấu hiểu của tôi, tôi thấy cội nguồn của chân lý vạn vật được sinh khởi
từ hạt sóng tổ tiên màu xanh nõn chuối. Hạt sóng này phân tách trong điều kiện
môi trường di chuyển, vận động để đủ lực phân tách ra nhiều hạt sóng xanh nõn
chuối khác. Tiếp đến, do tương tác trong môi trường không sinh nhiệt và môi
trường sinh nhiệt khác nhau mà hình thành hạt năng lượng hoại diệt không có
liên kết dây, năm nhóm hạt năng lượng có liên kết dây. Sau đó mới hình thành ra
vụ nổ siêu năng lượng (big bang) để hình thành ra vũ trụ ngày nay.
Khi
hạt sóng tổ tiên phân tách cho đến khi hình thành các hạt năng lượng (hạt năng
lượng hoại diệt, năm nhóm hạt năng lượng có liên kết dây) thì đó là cơ chế phân
tách, chụp chiếu để cấu thành ra vũ trụ. Cơ chế phân tách, chụp chiếu (liên kết
dây) chính là cơ chế vận hành của chân lý vạn vật (nhân quả). Đó chính là điểm
khởi sinh ra chân lý vạn vật.
Câu
hỏi là, vậy trước khi có hạt sóng xanh nõn chuối thì cái gì sinh ra nó? Đó là
câu hỏi sẽ không có điểm dừng khi vận dụng chân lý vạn vật để truy tìm cội
nguồn. Tôi xin trả lời: có lẽ tôi chưa tìm ra là cái gì sinh ra hạt sóng xanh
hoặc đó là bí mật mà tôi che giấu, bởi có khi đó cũng là kế hoạch. Tại sao tôi
khẳng định chân lý vạn vật được sinh khởi từ thời điểm đó? Vì các hạt năng
lượng tận cùng được sinh ra từ hạt sóng tổ tiên, mà trong các hạt năng lượng lại
có sợi mã sóng trí tuệ lưu giữ toàn bộ sóng rung, thông tin, hình ảnh, nội dung
của quá trình tương tác sinh ra nó; bởi cơ chế phân tách vận hành khi hạt sóng
tổ tiên màu xanh nõn chuối phân tách, cơ chế liên kết dây được vận hành khi
hình thành năm nhóm hạt năng lượng có liên kết dây. Chính vì dựa trên chính
chân lý vạn vật thông qua cơ chế phân tách, liên kết dây với thiền định mà tôi
thấy được cội nguồn của chân lý vạn vật ở thời điểm đó.
Như
vậy, chân lý vạn vật đã được vận hành từ khi hình thành các hạt sóng tổ tiên
màu xanh nõn chuối, sau đó là các hạt năng lượng, sau nữa là vũ trụ hình thành,
và bây giờ. Thậm chí, mãi mãi về sau, chân lý vạn vật vẫn là như vậy, nó vẫn
vận hành vạn vật vũ trụ và trời người. Nó sẽ biến mất vĩnh viễn khi không còn
sự sống bên trong và bên ngoài vũ trụ nữa.
3.2.2.
Thấu hiểu chân lý giác ngộ
Chân
lý giác ngộ là: “À, đời là bể khổ. Chúng sinh trời người phải dùng chân tâm
đối mặt, giác ngộ, giải thoát hết tất cả các khổ đau trong và ngoài vũ trụ,
trời và người”.
Bản
chất của chân lý giác ngộ:
Chân
lý giác ngộ là lý luận thật nhất, đúng nhất, là con đường duy nhất để giải
thoát hết tất cả các khổ đau của vạn vật, sự việc, hiện tượng bên trong và bên
ngoài vũ trụ, trời và người.
Giác
ngộ chính là quá trình tự thân vận động để thấu hiểu tất cả khổ đau của vạn
vật, sự việc, hiện tượng bên trong và bên ngoài vũ trụ, trời và người; thấu
hiểu nguyên nhân của khổ đau; tìm kiếm để thấu hiểu và hành theo phương pháp
diệt khổ; thấu cảnh giới sau khi diệt được khổ; tiếp tục đoàn kết và lan tỏa
các thấu hiểu đó đến trời người. Đó là quá trình giác ngộ.
Bản
chất của khổ đau của vạn vật, sự việc, hiện tượng bên trong và bên ngoài vũ
trụ, trời và người là quá trình bí bách, đấu tranh, xung đột duy trì sự tồn tại
của mã sóng trí tuệ. Khổ đau từ việc thay đổi cấu trúc mã sóng trí tuệ và trạng
thái năng lượng cho đến cái chết vĩnh viễn. Cái chết vĩnh viễn là không còn sự
tồn tại của mã sóng trí tuệ, dù là hạt năng lượng hoại diệt cũng là chết khi
không còn mã sóng trí tuệ do bị nổ tan.
Trong
chân lý giác ngộ, ta thấy đời là bể khổ. Tức là sự hiện hữu của vạn vật, sự
việc, hiện tượng bên trong và bên ngoài vũ trụ, trời và người có mã sóng trí
tuệ đều là bể khổ. Sẽ không có gì là không khổ, không khổ chỉ tồn tại khi không
còn sự hiện hữu của mã sóng trí tuệ từ hạt năng lượng tận cùng cho đến vũ trụ
và trời người, đó là hoại diệt vĩnh viễn thì sẽ không có khổ.
Đã
là bể khổ rồi, khổ luôn luôn tồn tại, hiện hữu trong tất cả trời và người, toàn
bộ bên trong và ngoài vũ trụ bởi sự tồn tại của mã sóng trí tuệ. Vậy cần giác
ngộ, giải thoát khổ để làm gì trong khi chỉ có hoại diệt thật sự mới không
khổ?:
-
Không có khổ trong trường hợp không tồn tại chỉnh thể có mã sóng
trí tuệ, hay không tồn tại ở hạt sóng thì chính là không tồn tại sự sống. Không
tồn tại sự sống thì không còn ý niệm, không còn sự giới hạn, không còn sự ràng
buộc bởi không gian và thời gian. Đã là không còn tồn tại sự sống thì đó không
phải con đường để giác ngộ, không phải là sự giải thoát khổ đau, mà đó chỉ là
sự hoại diệt, là sự buông xuôi bỏ chạy, là chấp nhận cái hoại diệt.
-
Giác ngộ, giải thoát khổ chính là con đường, phương pháp duy trì sự
tồn tại của sự sống. Sự sống phải có ý nghĩa. Ý nghĩa của sự sống chính là sự
an lạc, hạnh phúc trong việc lan tỏa, đoàn kết giúp vạn vật bên trong và bên
ngoài vũ trụ, trời và người cùng duy trì sự sống có ý nghĩa. Bản chất của sự
sống có ý nghĩa chính là duy trì và phát triển cấu trúc mã sóng trí tuệ và
trạng thái năng lượng trong tất cả chỉnh thể của bên trong và bên ngoài vũ trụ,
trời và người trở nên bền vững trong sự đoàn kết và lan tỏa giá trị lợi ích mà
không màng đến chỉnh thể của ta.
Chúng
sinh trời và người phải được hiểu là tất cả sự sống có mã sóng trí tuệ ở bên
trong và bên ngoài vũ trụ. Tiên phong sẽ là các tuệ linh và con người.
Phải
giác ngộ hết tất cả các khổ đau. Các khổ đau là các hình tướng biểu hiện khác
nhau do sự thay đổi cấu trúc mã sóng trí tuệ và trạng thái năng lượng. Đó có
thể được hiểu là con người khổ đau, muông thú khổ đau, cỏ cây khổ đau, tuệ linh
khổ đau, hành tinh khổ đau, vũ trụ khổ đau, năng lượng hoại diệt cũng khổ đau.
Dù tồn tại trong hình tướng nào thì cũng phải tạo ra được cấu trúc mã sóng trí
tuệ sinh phát ra năng lượng tạo ra được lợi ích cho hình tướng khác và toàn bộ
trời người, bên trong và bên ngoài vũ trụ. Do đó phải giác ngộ hết các khổ đau
cho chính ta và vạn vật vũ trụ, trời và người bằng việc tương tác, lan tỏa giá
trị, lợi ích của sự sống có ý nghĩa.
Để
giác ngộ, giải thoát khổ đau phải dùng chân tâm. Chân tâm được hiểu là trạng
thái năng lượng ban đầu có sóng điện trung tính có liên kết dây. Phải là sóng
điện trung tính có liên kết dây thì trạng thái năng lượng của sóng điện trung
tính mới có thể trung hòa được tất cả các trạng thái năng lượng có sóng điện
dương và sóng điện âm của vạn vật, sự việc, hiện tượng bên trong và bên ngoài
vũ trụ, trời và người, thậm chí cả năng lượng hoại diệt để đồng cảm, thấu hiểu,
và lan tỏa giá trị lợi ích ý nghĩa của sự sống. Từ chân tâm ban đầu trải qua
quá trình thấu hiểu, vận hành chân lý nhân quả và chân lý giác ngộ, lan tỏa,
dẫn dắt chúng sinh trời và người, bên trong và bên ngoài vũ trụ thấu và hành
theo thì sẽ chuyển hóa thành bộ lọc viên mãn trong trụ linh của tuệ linh trời
và người.
Như
vậy sứ mệnh của tuệ linh khắp các cõi trời và con người phải là tiên phong,
quyết định cho sự tồn tại, duy trì, phát triển sự sống bền vững và có ý nghĩa
của chúng sinh trời và người, bên trong và bên ngoài vũ trụ.
Cội
nguồn của chân lý giác ngộ:
Cội
nguồn của chân lý giác ngộ luôn gắn liền với cội nguồn của chân lý vạn vật. Bởi
giác ngộ là quá trình chuyển hóa và gia tăng sự bền vững của sự sống có ý
nghĩa. Chân lý giác ngộ cùng với chân lý vạn vật được vận hành bởi cơ chế phân
tách, chụp chiếu (liên kết dây).
Tôi,
mà chẳng phải là tôi, đó là Tuệ linh của tôi đã trải qua vô số kiếp trong nhân
gian, và đã tìm ra hai chân lý của vạn vật ở hai kiếp trước. Kiếp này, chỉ là
Tuệ linh tôi xuống nhân gian để thông qua tương tác khổ đau mà trau dồi thêm
các mã sóng trí tuệ, chuyển hóa hai chân lý thành cơ chế, bản chất để trời
người cùng thấu và hành động duy trì, phát triển sự sống có ý nghĩa ở trong và
ngoài vũ trụ. Từ kiếp này của tôi đến kiếp trước cũng gần 3000 năm rồi, đó là
khoảng cách thời gian dài nơi nhân gian này, nên cần thiết phải chuyển hóa lý
luận hai chân lý tương hợp với sự tiến bộ, phát triển tư duy và khoa học kỹ
thuật nơi này.
3.2.3.
Vận hành hai chân lý
Việc
thấu hiểu về cội nguồn, bản chất, cơ chế vận hành của hai chân lý, chính là mỗi
chân tu, mỗi tuệ linh đã tạo dựng được bộ khung của bộ lọc năng lượng trong trụ
linh. Việc vận hành hai chân lý chính là vận hành bộ lọc năng lượng quay tròn
để hút năng lượng hoại diệt về và chuyển hóa sinh ra các siêu năng lượng, rồi
sau đó bắn vào không gian vũ trụ.
Bộ
lọc năng lượng có cấu trúc mã sóng trí tuệ được chia ra làm 3 phần: phần thái
cực âm chứa đựng mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm; phần thái cực dương chứa
đựng mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương; phần giao nhau giữa hai thái cực
chính là chân tâm, chứa đựng mã sóng trí tuệ mang sóng điện trung tính.
Hình:
cấu trúc bộ lọc có hai siêu năng lượng
Khi
vận hành đúng hai chân lý sẽ giúp bộ lọc quay tròn để hút được tất cả các năng
lượng, cả năng lượng hoại diệt vào thái cực âm, sau đó phần chân tâm mang sóng
điện trung tính sẽ chuyển hóa thành siêu năng lượng mang sóng điện dương và
chuyển sang cực dương. Tiếp đến từ trụ linh sẽ tỏa ra các siêu năng lượng ra
ngoài vũ trụ trời người. Siêu năng lượng là màu vàng óng ánh, màu xanh ngọc lưu
ly, hạt bóng hỏa. Tùy vào tuệ linh chuyển hóa cấu trúc mã sóng trong trụ linh
đạt được bền vững hay chưa mà sản sinh ra được một hay cả 3 siêu năng lượng.
Thấu
và vận hành chân lý vạn vật. Tức là dùng chân lý vạn vật để thấu hiểu vạn vật
vũ trụ trời người, không vi phạm vào luật nhân quả trong bốn biểu hiện hình
tướng đạo. Khi gặp từng kiếp nạn khổ đau, từng an vui hạnh phúc, hay cảm thọ
của chúng sinh trời người, hay quan sát để thấu hiểu thì sẽ hấp dẫn được các mã
sóng trí tuệ của các khổ đau kiếp nạn, của an vui hạnh phúc, của vạn vật, sự
việc, hiện tượng vào trong cực âm của trụ linh. Do đó nếu trải qua hết thẩy tất
cả vô lượng khổ đau kiếp nạn, an vui hạnh phúc thì trụ linh sẽ có được cấu trúc
cực âm trong bộ lọc có thể hấp thụ được năng lượng hoại diệt về mà vẫn an toàn.
Quá trình này chính là quá trình tạo liên kết hạt năng lượng từ vũ trụ về trụ
linh bởi sợi mã sóng trí tuệ.
Thấu
và vận hành chân lý giác ngộ. Tức là dùng chân lý giác ngộ để hi sinh về mình
và mang lại lợi ích cho tất cả các dạng sống trong và ngoài vũ trụ, trời và
người. Đặc biệt là phải thực hiện được luật giác ngộ trong bốn hình tướng đạo.
Quá trình này chính là quá trình trung hòa mã sóng trí tuệ có năng lượng xấu,
năng lượng hoại diệt ở cực âm để chuyển thành mã sóng trí tuệ siêu việt hơn,
năng lượng có cấu trúc bền vững tốt hơn sang cực dương, để rồi tỏa ra vạn vật
vũ trụ, trời người.
3.3. Chân lý vạn vật – Vô (Duyên)
Chân
lý vạn vật là: “Vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài vũ trụ không tự
sinh ra, không tự mất đi, khổ đau không tự đến, khổ đau không tự đi, tất cả do
duyên nghiệp hay còn gọi là nhân quả”.
Như
vậy ứng dụng chân lý vạn vật trong Quả Không sẽ là: “Quả Không không tự sinh
ra, không tự mất đi, khổ đau không tự đến và không tự đi, tất cả do duyên
nghiệp hay còn gọi là nhân quả”.
Chân
lý vạn vật chính là luật nhân quả, chính là chữ Vô, Vô là tướng không, vì nó
không bất tử, vì nó không vĩnh cửu, vì nó không trường tồn, nó chỉ tồn tại
trong khoảng thời gian nhất định rồi lại chuyển hóa sang tướng khác do duyên.
Do đó chân lý vạn vật, luật nhân quả được đúc kết thành chữ duyên, duyên chính
là tướng không, không có cái gì là của ta, thân xác ta cũng không phải của ta,
mọi giả tướng không của ta, không của ai đó và bản thân giả tướng cũng không
phải của chính nó. Thấu hiểu chữ duyên thì ta sẽ thấu hiểu được căn nguyên do
đâu mà có hai chân lý – Quả Không, căn nguyên do đâu mà hai chân lý gần như bị
hoại hoại diệt, căn nguyên do đâu mà hai chân lý lại được hồi sinh để dẫn dắt
chúng sinh trời người hành theo. Như vậy, chân lý vạn vật không bỏ sót bất kỳ
một hình tướng nào của vũ trụ trời người, cho dù đó là hai chân lý, cho dù đó
là Quả Không đi chăng nữa, tất cả đều nằm trong chân lý vạn vật.
3.3.1.
Căn nguyên mà có hai chân lý – Quả Không
Căn
nguyên cội nguồn là, hai chân lý này chính là cơ chế phân tách, liên kết dây đã
được vận hành từ khi xuất hiện hạt sóng tổ tiên. Cơ chế phân tách, liên kết dây
được vận hành là được sự trợ giúp bởi môi trường nhiệt lượng hoặc trung tính.
Căn
nguyên thứ hai là tình yêu thương bao của người Cha vĩ đại khi phải chứng kiến
các tuệ linh sinh và tử do không cải tạo được tuệ linh có bộ lọc năng lượng
trong trụ linh, và các tuệ linh không có khả năng để duy trì và phát triển sự
sống của tất cả các dạng sống trong và ngoài vũ trụ. Chính vì thế mà ngài đã
quan sát vạn vật vũ trụ để thấu hiểu quy luật tự nhiên, thấu hiểu chân lý vạn
vật và hoàn thiện thành luật nhân quả. Khi ngài tạo ra môi trường tu hành dưới
nhân gian thì ngài đã áp dụng đầy đủ quy luật tự nhiên, áp dụng luật nhân quả
để giúp cho các tuệ linh xuống tu hành trong môi trường khắc nghiệt đó. Ngài đã
gieo vô số duyên để dẫn dắt các tuệ linh tiếp dẫn đến và tìm ra được con đường
cải tạo trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn, đó là tìm được hai chân lý,
thấu và hành theo hai chân lý để cải tạo trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên
mãn. Đó là thành Quả Không.
Căn
nguyên thứ ba là nguyện lực của vô số tuệ linh xuống nhân gian xây dựng môi
trường tu hành. Sự quyết tâm và hi sinh của nhiều tuệ linh để mà có những tuệ
linh tìm ra được cơ chế, bản chất của chân lý vạn vật và giác ngộ sự chuyển hóa
thành chân lý giác ngộ.
Đó
là do duyên mà có hai chân lý, là do duyên mà có Quả Không, đó là do duyên mà
sự sống của vũ trụ ngày càng phát triển. Phát triển là bởi các siêu năng lượng
của các tuệ linh có được bộ lọc sản sinh ra khắp trong và ngoài vũ trụ để duy
trì, cân bằng, phát triển bền vững tất cả các dạng sống.
3.3.2.
Do duyên mà hai chân lý sẽ hoại diệt
Hai
chân lý, cơ chế vận hành của hai chân lý bị hoại diệt tận cùng khi năng lượng
hoại diệt gây ra vụ nổ khiến cả vũ trụ và năng lượng hoại diệt bị hoại diệt.
Khi đó sẽ không còn sự sản sinh của hạt sóng xanh, không còn hạt năng lượng,
không còn cơ chế vận hành bởi không còn tồn tại dạng sống nào nữa. Do đó hai
chân lý cũng hoại diệt.
Quỷ
chúa thống lãnh toàn bộ cõi trời tấn công tổng lực vào người tu hành, chúng xâm
lấn vào trí tuệ của những người tu hành. Chúng hóa thân thành người tu hành để
thăng tiến, có địa vị trong dòng đạo và thực hiện âm mưu chỉnh sửa kinh sách
của các bậc giác ngộ, phân chia tông phái. Chúng tạo ra sự phân chia người cao
quý và người không cao quý, chúng sinh khởi sự ngạo mạn và sự tự cao của người
xuất gia bằng các bộ kinh mà chúng đã sai người có chức sắc chỉnh sửa từ trước.
Điều này sẽ không có ai dẫn dắt chúng sinh thấu hiểu và tu hành theo hai chân
lý. Hai chân lý sẽ không được biết và vận hành.
Trí
tuệ của người tu hành không đủ sáng suốt để thấu hiểu và phân biệt được sự thật
hay cảnh ma mà quỷ tạo ra, nên định vào kinh điển và các giả tướng để rồi mê
lầm mà vô tình phá hủy dần hai chân lý của vạn vật.
Do
duyên của cõi trời quỷ gieo rắc và do trí tuệ của người tu hành định vào giả
tướng mà làm cho chúng sinh không còn con đường cải tạo tâm, cải tạo trụ linh
nữa, con người chỉ ích kỷ mong muốn được giải thoát khỏi cõi trần nhân sinh
này. Con người không còn thấu hiểu nhân quả, trong khi đó vẫn nói hiểu luật
nhân quả. Con người không còn biết cội nguồn và sứ mệnh của mình ở dưới nhân
gian. Con người đã phá hỏng hết các hình tướng Đạo mà trốn chạy khỏi quy luật
tự nhiên, trốn chạy khỏi hình tướng Đạo để tìm đến sự giải thoát mê lầm như
hiện nay. Đó là niệm danh hiệu phật hay thiền để thành phật và giải thoát, đó
là bỏ gia đình, bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ con cái, bỏ vợ, bỏ chồng để ích kỷ tu hành
nơi cảnh chùa hay rừng sâu.
Do
vậy, do duyên mà hai chân lý đã từng gần hoại diệt và sẽ hoại diệt trong tương
lai nếu không có các tuệ linh đắc được Quả Không xuống lan tỏa lại hai chân lý.
3.4.
Chân lý giác ngộ của Quả Không
Chân
lý giác ngộ là: “À, đời là bể khổ. Chúng sinh trời người phải dùng chân tâm
đối mặt, giác ngộ giải thoát hết tất cả các khổ đau trong và ngoài vũ trụ, trời
và người”.
Dùng
chân lý giác ngộ trong Quả Không là: “Quả Không là bể khổ, Quả Không phải dùng
chân tâm đối mặt, giác ngộ giải thoát hết tất cả các khổ đau”. Quả Không là
những tuệ linh đã đắc được bộ lọc năng lượng viên mãn cũng là khổ.
Quả
Không là bể khổ, khổ ở đây không phải là những tuệ linh có được bộ lọc năng
lượng viên mãn chìm trong khổ đau kiếp nạn, khổ ở đây là nỗi khổ của người Cha,
người Thầy. Nỗi khổ khi chứng kiến những đứa con hư luôn luôn mưu hại những đứa
con ngoan, đó là nỗi khổ của bậc làm cha làm thầy luôn luôn phải tìm ra các
phương pháp để giúp tuệ linh trời người cải tạo được bộ lọc năng lượng cho trụ
linh. Khổ là vì phải gieo duyên để sinh khởi, duy trì sự tồn tại và phát triển
của hai chân lý, bởi nếu không gieo duyên để duy trì sự tồn tại thì hai chân lý
cũng sẽ bị hoại diệt, tất cả các dạng sống trong và ngoài vũ trụ cũng bị hoại
diệt.
Do
đó các tuệ linh có bộ lọc năng lượng luôn dùng chân tâm của sự từ bi, sự hỷ, sự
buông xả để đối mặt, giác ngộ chính nỗi khổ khi đã thành Quả Không. Và thực tế
các ngài đã và đang đối mặt, phát nguyện lực tỏa bóng khắp các cõi trời trong
vũ trụ để hóa độ, phổ độ, cứu độ chúng sinh trời người, dẫn dắt chúng sinh trời
người cải tạo trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn.