Giới thiệu về Bát Không Chân Kinh
Hình:
sơ đồ bát không chân kinh
Bát
Không Chân Kinh là 8 tướng, là 8 bức tranh sự thật, là 8 bài mô tả chi tiết sự
thật của vũ trụ và trời người. Bát Không Chân Kinh cho ta hiểu sự thật về toàn
bộ hình tướng vạn vật trong và ngoài vũ trụ trời người, về trí tuệ của toàn bộ
trời người trong vũ trụ, về tâm của toàn bộ trời người trong vũ trụ, về việc
hành của toàn bộ vũ trụ và trời người, về con đường đạo của toàn bộ trời người
trong vũ trụ, về mức độ cải tạo vũ trụ của toàn bộ trời người trong vũ trụ, về
chân lý vạn vật và chân lý giác ngộ trong và ngoài vũ trụ, về thiên địa nhân,
về sự hình thành của nhân loại, về nguyện lực của toàn bộ trời người. Mỗi bài
trong 8 bài của Bát Không Chân Kinh sẽ là 8 bức tranh nhỏ chi tiết rõ ràng về
sự thật của vũ trụ trời người, khi mỗi bức tranh được phơi bày ra và ghép lại
sẽ cho ta thấy được một bức tranh tổng thể của sự thật toàn bộ vũ trụ và trời
người. Bát Không Chân Kinh chính là chân lý vạn vật và chân lý giác ngộ, là mặt
trời tỏa ánh sáng rực rỡ để soi thấu vạn vật cho trời người nương tựa và an lạc
trong ánh sáng sự thật đó. Bát Không Chân Kinh là lý luận gốc, lý luận thật
nhất để giúp cho trời người tu hành cải tạo được bộ lọc năng lượng trong tâm,
trong trụ linh để duy trì sự sống của tất cả các dạng sống trong và ngoài vũ
trụ. Để cải tạo được tâm, trụ linh thành bộ lọc năng lượng có sức mạnh kỳ diệu
đó thì mỗi một người tu hành phải thấu hiểu 8 bức tranh trong Bát Không và vận
dụng Bát Không để đi cải tạo thế giới quan cõi trần nhân sinh bằng việc đi cứu
độ, phổ độ, hóa độ cho chúng sinh. Đó là giúp cho con người khắp thế giới không
còn mê tín dị đoan, không còn chiến tranh, không còn ích kỷ ở mỗi con người,
không còn từ bỏ gia đình, không còn chạy trốn cuộc sống để chỉ biết cầu nguyện,
không còn phân chia dân tộc sắc tộc, không còn chiến tranh giữa các tôn giáo,
không còn người hại người. Đó là giúp cho con người phải yêu thương nhau, đùm
bọc nhau và giúp đỡ nhau để đoàn kết toàn bộ nhân loại cùng nhau cải tạo cuộc
sống của cõi trần nhân gian này được hạnh phúc và an lạc, không ngừng nâng cao
giá trị đạo đức nhân văn của nhân loại. Khi có được bộ lọc năng lượng trong trụ
linh của tuệ linh thì các chân tu sau khi nhập diệt cõi trần nhân gian này sẽ
đắc quả vị Không, đó là niết bàn thật sự, là bất tử thật sự của tuệ linh, sau
đó là quá trình duy trì sự sống của tất cả các dạng sống trong và ngoài vũ trụ.
Do vậy Bát Không Chân Kinh là con đường giác ngộ viên mãn nhất cho toàn bộ trời
người nương theo, hành theo để cải tạo được trụ linh cho chính mình và trời
người.
Bát
Không Chân Kinh được phân tích và hoàn thiện dựa trên 2 chân lý, đó là chân lý
vạn vật và chân lý giác ngộ. Để tìm ra và thấu hiểu 2 chân lý đó thì trải qua
nhiều đời, nhiều kiếp tu hành dưới nhân gian, được sự trợ nhân duyên của vị Tuệ
linh đầu tiên (người cha vĩ đại của vũ trụ và trời người), tôi đã tìm ra và
thấu hiểu, đã hành theo 2 chân lý đó để thành đạo ở kiếp quá khứ. Kiếp này cũng
là do nguyện lực để được xuống nhân gian, trải qua quá trình quan sát sự vận
hành của quy luật tự nhiên, trải qua quá trình quan sát khổ đau của chúng sinh
và vạn vật, trải qua quá trình thiền định để thấu hiểu các kiếp trước, thấu
hiểu toàn bộ vũ trụ, về cội nguồn cũng như sứ mệnh của nhân loại. Do đó tôi đã
hoàn lại được trí tuệ giác ngộ trong các kiếp quá khứ để hệ thống lại hoàn
chỉnh 2 chân lý, toàn bộ lý luận cũng như phương pháp giúp cho mọi người, nhân
loại thấu hiểu sự thật về con đường tu hành dưới nhân gian và hành đúng để có
được sự giác ngộ viên mãn nhất.
Giới
thiệu về chân lý vạn vật:
Chân
lý vạn vật là: “Vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài vũ trụ không tự
nó sinh ra, không tự nó mất đi, khổ đau không tự đến, khổ đau không tự đi. Tất
cả do duyên và nghiệp, hay còn gọi là nhân và quả”.
Bản
chất của chân lý vạn vật (chân lý nhân quả):
Trước
tiên, ta phải hiểu bản chất của chân lý. Chân lý chính là lý luận gốc nhất, lý
luận chân thật nhất, là sự thật không thể sai.
Vạn
vật, sự việc, hiện tượng bên trong và bên ngoài vũ trụ, ta phải hiểu đó là từ
các yếu tố cấu thành hạt năng lượng tận cùng cho đến sự hiện hữu của cả vũ trụ.
Chân
lý vạn vật (nhân quả) chính là lý luận gốc nhất, thật nhất, đúng nhất của vạn
vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài vũ trụ. Tức là không có vạn vật nào, sự
việc nào, hiện tượng nào dù bên trong hay bên ngoài vũ trụ, nằm bên ngoài chân
lý vạn vật. Tất cả đều nằm trong chân lý vạn vật, hay có thể nói, chân lý vạn
vật nằm trong chính mỗi vật của tất cả vạn vật, trong mỗi sự việc của tất cả sự
việc, trong mỗi hiện tượng của tất cả hiện tượng bên trong và bên ngoài vũ trụ.
Chân
lý vạn vật là của vạn vật chứ không phải của một ai hay của tôn giáo nào, cũng
như của kinh kệ nào. Chân lý vạn vật là cái có sẵn, là cơ chế, bản chất vận
hành của vạn vật, sự việc, hiện tượng bên trong và bên ngoài vũ trụ. Do đó, chỉ
có tuệ linh hay con người thấu hiểu cơ chế, bản chất vận hành trong vạn vật, sự
việc, hiện tượng bên trong và bên ngoài vũ trụ mà phân tách, liên kết, tổng hợp
thành chân lý. Chân lý luôn luôn phải đúng khi áp dụng và kiểm chứng với mỗi
vật trong vạn vật, với mỗi sự việc trong tất cả sự việc, với mỗi hiện tượng
trong tất cả hiện tượng của bên trong và bên ngoài vũ trụ.
Trong
chân lý vạn vật cho thấy tất cả vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài vũ
trụ đều không tự nó sinh ra. Đó là do cơ chế phân tách, chụp chiếu (liên kết
dây) để sinh ra vạn vật, sự việc, hiện tượng mới. Tức là phải có điều kiện môi
trường cho quá trình phân tách, liên kết để sinh ra vạn vật, sự việc, hiện
tượng bên trong và bên ngoài vũ trụ. Đó là điều kiện môi trường khi có sự tương
tác giữa các chỉnh thể, có áp lực, sức nén của năng lượng từ các chỉnh thể, có
sự truyền dẫn dinh dưỡng (năng lượng) vào chỉnh thể, có liên kết dây giữa các
chỉnh thể bằng sợi mã sóng trí tuệ, phải có môi trường sinh nhiệt (sóng điện âm
hay dương hay trung tính có liên kết dây). Như vậy, vạn vật, sự việc, hiện
tượng không tự nó sinh ra, mà phải có cơ chế phân tách, chụp chiếu và điều kiện
môi trường tương tác giữa các chỉnh thể.
Vạn
vật, sự việc, hiện tượng cũng không tự nó mất đi. Sự mất đi cần phải được hiểu
là từ sự chuyển hóa từ hình tướng này sang hình tướng khác (chuyển hóa này
không gọi là chết, vì nó vẫn còn mã sóng trí tuệ trong chỉnh thể) cho đến cái
chết vĩnh viễn của chỉnh thể là không còn mã sóng trí tuệ trong hạt năng lượng.
Không tự chỉnh thể mất đi là do quá trình đứt liên kết dây và phân rã của vạn
vật, sự việc, hiện tượng trong quá trình tương tác. Vạn vật, sự việc, hiện
tượng chỉ hoại diệt (chết vĩnh viễn) khi bị số lượng hạt năng lượng hoại diệt
xâm nhập gây nổ hủy diệt hoàn toàn và không còn mã sóng trí tuệ. Vạn vật, sự
việc, hiện tượng, chuyển hóa hình tướng mà vẫn còn mã sóng trí tuệ thì chưa
được gọi là cái chết.
Bản
chất của khổ đau của vạn vật, sự việc, hiện tượng bên trong và bên ngoài vũ
trụ, trời và người là quá trình bí bách, đấu tranh, xung đột duy trì sự tồn tại
của mã sóng trí tuệ. Khổ đau từ việc thay đổi cấu trúc mã sóng trí tuệ và trạng
thái năng lượng cho đến cái chết vĩnh viễn. Cái chết vĩnh viễn là không còn sự
tồn tại của mã sóng trí tuệ, dù là hạt năng lượng hoại diệt cũng là chết khi
không còn mã sóng trí tuệ do bị nổ tan.
Khổ
đau đến, khổ đau đi là do cơ chế phân tách, chụp chiếu và quá trình phân rã,
đứt liên kết hoặc gia tăng cấu trúc bền vững của mã sóng trí tuệ trong quá
trình tương tác của vạn vật, sự việc, hiện tượng từ hạt năng lượng cho đến bên
trong và bên ngoài vũ trụ, trời và người.
Bản
chất của duyên – nghiệp, nhân – quả hay bản chất chung của chân lý vạn vật được
kết tinh gọn thành một chữ. Đó là chữ “Duyên”. Cơ chế vận hành chữ Duyên (chân
lý nhân quả) chính là cơ chế phân tách, chụp chiếu (liên kết dây) đã phân tích
ở phần trước. Duyên có duyên trong duyên, duyên ngoại duyên.
-
Duyên là gì? Duyên chính là sự hợp mà thành. Đó
là quá trình hợp nhất của các yếu tố để cấu thành chỉnh thể từ hạt năng lượng
cho đến vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài vũ trụ, trời và người. Sự
hợp chính là thuyết tam hợp và cơ chế phân tách, chụp chiếu (liên kết dây). Hợp
chính là khả năng liên kết dây giữa các chỉnh thể có cùng sóng điện (sóng điện
âm với sóng điện âm, sóng điện dương với sóng điện dương, sóng điện trung tính
với sóng điện trung tính) và không cùng sóng điện (sóng điện âm với sóng điện
dương, sóng điện âm với sóng điện trung tính, sóng điện dương với sóng điện trung
tính). Hợp còn chính là sự cấu thành hạt năng lượng hoại diệt, dù hạt năng
lượng hoại diệt không có liên kết dây để cấu tạo thành vật chất, nhưng có cơ
chế phân tách và được vận hành chỉ bởi sóng rung và chỉnh thể hạt năng lượng
hoại diệt cũng là sự hợp bởi 3 yếu tố mà cấu tạo thành nó. Như vậy, hợp chính
là thuyết tam hợp và cơ chế phân tách, liên kết dây.
-
Duyên trong duyên: duyên trong duyên là việc ta biết
vạn vật ở hiện tại, chỉnh thể hiện tại, sự việc hiện tại, hiện tượng hiện tại,
con người hiện tại, bên trong và bên ngoài vũ trụ hiện tại. Khi biết cái hiện
tại rồi, ta sẽ đi tìm cái ở quá khứ, đó là những cái gì đã cấu tạo thành cái
hiện tại. Ta lại tiếp tục truy tìm những cái ở quá khứ của quá khứ cho đến tận
cùng. Để tìm được duyên trong duyên thì trước tiên ta phải thấu bản chất của
cái hiện tại, cái bản chất hiện tại sẽ biểu hiện ra hiện tượng, thấu hiểu hiện
tượng cũng chính là thấu hiểu bản chất hiện tại. Tiếp đến là ta phải thấu cơ
chế phân tách, chụp chiếu (liên kết dây) và nếu có khả năng thiền định nữa thì
sẽ khám phá và thấu hiểu thế giới quan vũ trụ trời người từ tận cùng hình thành
cho đến nay. Ví dụ: ta thấy ta, ta chính là một người, ta là hiện tại, ta sẽ
tìm hiểu cái gì sinh ra ta, ta tìm hiểu và ta biết là cha mẹ ta sinh ra ta, ta
tìm hiểu cha mẹ sinh ra ta như thế nào và ta biết. Ta lại tìm hiểu ta là ai?
Tâm ta như thế nào? Kiếp trước ta là ai? Muốn biết được thì ta phải thấu hiểu
bản chất của ta thông qua những biểu hiện và hành động để thấy tâm ta, ta phải
thấu hiểu cơ chế phân tách, chụp chiếu, thiền quán được thì ta sẽ thấu hiểu ta
là ai, kiếp trước ta là ai. Cứ áp dụng phân tích chữ duyên bằng cơ chế phân
tách, chụp chiếu ta sẽ thấu duyên trong duyên của ta. Đó chính là thấu cái hiện
tại để biết cái quá khứ của cái hiện tại.
-
Duyên ngoại duyên: duyên ngoại duyên là việc ta biết,
thấu hiểu bản chất thông qua hiện tượng được biểu hiện ra và quá trình đang
hành động tương tác của vạn vật, sự việc, hiện tượng, trời và người, trong và
ngoài vũ trụ tại hiện tại. Khi ta thấu hiểu cái hiện tại thì ta sẽ thấy cái
tương lai. Đó là biết cái duyên tương lai của cái duyên hiện tại, cái duyên
chính là chỉnh thể của vạn vật, sự việc, hiện tượng. Cái duyên tương lai là cái
hình tướng mới, chỉnh thể mới, vạn vật mới, hiện tượng mới, sự việc mới thông
qua cơ chế phân tách, chụp chiếu (liên kết dây).
Giới
thiệu về chân lý giác ngộ:
Chân
lý giác ngộ là: “À, đời là bể khổ. Chúng sinh trời người phải dùng chân tâm
đối mặt, giác ngộ, giải thoát hết tất cả các khổ đau trong và ngoài vũ trụ,
trời và người”.
Bản
chất của chân lý giác ngộ:
Chân
lý giác ngộ là lý luận thật nhất, đúng nhất, là con đường duy nhất để giải
thoát hết tất cả các khổ đau của vạn vật, sự việc, hiện tượng bên trong và bên
ngoài vũ trụ, trời và người.
Giác
ngộ chính là quá trình tự thân vận động để thấu hiểu tất cả khổ đau của vạn
vật, sự việc, hiện tượng bên trong và bên ngoài vũ trụ, trời và người; thấu hiểu
nguyên nhân của khổ đau; tìm kiếm để thấu hiểu và hành theo phương pháp diệt
khổ; thấu cảnh giới sau khi diệt được khổ; tiếp tục đoàn kết và lan tỏa các
thấu hiểu đó đến trời người. Đó là quá trình giác ngộ.
Bản
chất của khổ đau của vạn vật, sự việc, hiện tượng bên trong và bên ngoài vũ
trụ, trời và người là quá trình bí bách, đấu tranh, xung đột duy trì sự tồn tại
của mã sóng trí tuệ. Khổ đau từ việc thay đổi cấu trúc mã sóng trí tuệ và trạng
thái năng lượng cho đến cái chết vĩnh viễn. Cái chết vĩnh viễn là không còn sự
tồn tại của mã sóng trí tuệ, dù là hạt năng lượng hoại diệt cũng là chết khi
không còn mã sóng trí tuệ do bị nổ tan.
Trong
chân lý giác ngộ, ta thấy đời là bể khổ. Tức là sự hiện hữu của vạn vật, sự
việc, hiện tượng bên trong và bên ngoài vũ trụ, trời và người có mã sóng trí
tuệ đều là bể khổ. Sẽ không có gì là không khổ, không khổ chỉ tồn tại khi không
còn sự hiện hữu của mã sóng trí tuệ từ hạt năng lượng tận cùng cho đến vũ trụ
và trời người, đó là hoại diệt vĩnh viễn thì sẽ không có khổ.
Đã
là bể khổ rồi, khổ luôn luôn tồn tại, hiện hữu trong tất cả trời và người, toàn
bộ bên trong và ngoài vũ trụ bởi sự tồn tại của mã sóng trí tuệ. Vậy cần giác
ngộ, giải thoát khổ để làm gì trong khi chỉ có hoại diệt thật sự mới không
khổ?:
-
Không có khổ trong trường hợp không tồn tại chỉnh thể có mã sóng
trí tuệ, hay không tồn tại ở hạt sóng thì chính là không tồn tại sự sống. Không
tồn tại sự sống thì không còn ý niệm, không còn sự giới hạn, không còn sự ràng
buộc bởi không gian và thời gian. Đã là không còn tồn tại sự sống thì đó không
phải con đường để giác ngộ, không phải là sự giải thoát khổ đau, mà đó chỉ là
sự hoại diệt, là sự buông xuôi bỏ chạy, là chấp nhận cái hoại diệt.
-
Giác ngộ, giải thoát khổ chính là con đường, phương pháp duy trì
sự tồn tại của sự sống. Sự sống phải có ý nghĩa. Ý nghĩa của sự sống chính là
sự an lạc, hạnh phúc trong việc lan tỏa, đoàn kết giúp vạn vật bên trong và bên
ngoài vũ trụ, trời và người cùng duy trì sự sống có ý nghĩa. Bản chất của sự
sống có ý nghĩa chính là duy trì và phát triển cấu trúc mã sóng trí tuệ và
trạng thái năng lượng trong tất cả chỉnh thể của bên trong và bên ngoài vũ trụ,
trời và người trở nên bền vững trong sự đoàn kết và lan tỏa giá trị lợi ích mà
không màng đến chỉnh thể của ta.
Chúng
sinh trời và người phải được hiểu là tất cả sự sống có mã sóng trí tuệ ở bên
trong và bên ngoài vũ trụ. Tiên phong sẽ là các tuệ linh và con người.
Phải
giác ngộ hết tất cả các khổ đau. Các khổ đau là các hình tướng biểu hiện khác
nhau do sự thay đổi cấu trúc mã sóng trí tuệ và trạng thái năng lượng. Đó có
thể được hiểu là con người khổ đau, muông thú khổ đau, cỏ cây khổ đau, tuệ linh
khổ đau, hành tinh khổ đau, vũ trụ khổ đau, năng lượng hoại diệt cũng khổ đau.
Dù tồn tại trong hình tướng nào thì cũng phải tạo ra được cấu trúc mã sóng trí
tuệ sinh phát ra năng lượng tạo ra được lợi ích cho hình tướng khác và toàn bộ
trời người, bên trong và bên ngoài vũ trụ. Do đó phải giác ngộ hết các khổ đau
cho chính ta và vạn vật vũ trụ, trời và người bằng việc tương tác, lan tỏa giá
trị, lợi ích của sự sống có ý nghĩa.
Để
giác ngộ, giải thoát khổ đau phải dùng chân tâm. Chân tâm được hiểu là trạng
thái năng lượng ban đầu có sóng điện trung tính có liên kết dây. Phải là sóng
điện trung tính có liên kết dây thì trạng thái năng lượng của sóng điện trung
tính mới có thể trung hòa được tất cả các trạng thái năng lượng có sóng điện
dương và sóng điện âm của vạn vật, sự việc, hiện tượng bên trong và bên ngoài
vũ trụ, trời và người, thậm chí cả năng lượng hoại diệt để đồng cảm, thấu hiểu,
và lan tỏa giá trị lợi ích ý nghĩa của sự sống. Từ chân tâm ban đầu trải qua
quá trình thấu hiểu, vận hành chân lý nhân quả và chân lý giác ngộ, lan tỏa,
dẫn dắt chúng sinh trời và người, bên trong và bên ngoài vũ trụ thấu và hành
theo thì sẽ chuyển hóa thành bộ lọc viên mãn trong trụ linh của tuệ linh trời
và người.
**********
Trong
mỗi một bài của Bát không chân kinh sẽ mô tả rõ khái niệm, bản chất, chân lý
vạn vật và chân lý giác ngộ trong từng bức tranh sự thật của vũ trụ trời người.
Khi mỗi chúng ta thấu hiểu và hành theo Bát Không Chân Kinh chính là chúng ta
đã và đang xây dựng một con đường, đó là con đường giá trị đạo đức cho chính chúng
ta và trời người. Giá trị đạo đức chính là nền móng của bộ lọc năng lượng viên
mãn trong trụ linh. Bộ lọc năng lượng trong trụ linh chính là phải sản sinh ra
được những siêu năng lượng duy trì sự tồn tại, phát triển của tất cả các dạng
sống bên trong và bên ngoài của vũ trụ và trời người.
Để
việc tu luyện đạt được thành công viên mãn nhất, chúng ta phải có phương pháp
để thấu hiểu và thực hành tốt nhất. Đó là chúng ta sẽ chia ra làm 4 phần trong
8 bài của Bát Không Chân Kinh: đầu tiên phải thấu hiểu nguyện lực của tuệ linh
và của chính chúng ta trong bài Nguyện; tiếp theo là phương pháp để nhanh hoàn
thành được nguyện lực trong bài Đạo; tiếp đến là ta sẽ thấy được thành tựu sau
khi hoàn thành nguyện lực trong bài Quả không; tiếp đến là chúng ta thực hành
trên con đường để đến đích trong bài Tướng, Trí, Tâm, Hành, Tuệ.