Bài Tướng
Bài Tướng cũng được hiểu là Tướng Vô Tướng
Chữ
Tướng đầu tiên là khái niệm và bản chất của hình Tướng, chữ Vô là chân lý vạn
vật trong hình Tướng, chữ Tướng cuối cùng là chân lý giác ngộ trong hình Tướng.
4.1. Khái niệm về hình
tướng
“Hình
tướng là sự hiện hữu và phản chiếu của vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và
ngoài vũ trụ, trời và người”.
4.2. Bản chất của hình
tướng
Trong
bản chất của hình tướng sẽ có bản chất cơ bản thể hiện ở sự hiện hữu và phản
chiếu của vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài vũ trụ, trời và người. Và
bản chất tận cùng của hình tướng chính là sự cấu thành của thuyết tam hợp để
tạo thành các hình tướng mới, đó là từ hạt năng lượng tận cùng đến vạn vật, sự
việc, hiện tượng trong và ngoài vũ trụ, trời và người.
4.1.1. Hình
tướng thể hiện ở sự hiện hữu của vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài vũ
trụ thông qua đôi mắt trần tục
Ta
nhìn thấy cốc chén, sách vở, máy tính, bàn làm việc, ngôi nhà, ruộng vườn,
muông thú, con người, lục phủ ngũ tạng trong cơ thể con người, chân tay mắt
miệng tóc tai mũi trên cơ thể người, em bé được sinh ra, người bệnh, người già,
người chết, máy móc, ô tô, máy bay, con đường, cỏ cây, thành phố, sông núi, đất
cát, biển trời, quốc gia, trái đất, mặt trời, mặt trăng, các vì sao rực sáng
trong đêm…, đó là nhìn thấy sự hiện hữu của vạn vật có hình hài. Ta nhìn thấy
hội họp của nhóm người, nhìn thấy nhiều người làm cùng một việc, nhìn thấy
nhiều người tranh luận hay cãi nhau, nhìn thấy nhiều người giết hại nhau, nhìn
thấy nhiều người đánh nhau, nhìn thấy muông thú đang săn mồi… đó là nhìn thấy
sự việc đang hiện hữu bởi tương tác của con người và của muông thú. Ta nhìn
thấy những đám mây di chuyển trên không trung, nhìn thấy mưa, nhìn thấy nắng,
nhìn thấy tia sét khi mưa gió, nhìn thấy bão, nhìn thấy sóng thần, nhìn thấy
động đất, nhìn thấy núi lửa phun trào, nhìn thấy tuyết rơi, nhìn thấy bão cát
sa mạc, nhìn thấy cầu vồng…, đó là cái ta nhìn thấy các hiện tượng tự nhiên
trong vũ trụ.
4.2.1.
Hình tướng thể hiện ở sự hiện hữu của vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và
ngoài vũ trụ thông qua thiền định
Khi
hành thiền đã khai mở được các cảnh giới của thiền thì ta sẽ nhìn được hình
tướng của vũ trụ mà mắt thường không thể nhìn được. Ta nhìn thấy các cõi trời
có sự sống, nhìn thấy các tuệ linh ở các cõi trời đó, nhìn thấy cỏ cây hoa lá
sông núi ở các cõi trời đó, nhìn thấy thần thánh, nhìn thấy phật, thấy bồ tát, thấy
quỷ, thấy yêu tinh, thấy cô hồn, thấy vong linh, thấy cõi trời của các vị phật,
thấy cõi trời địa phủ,... Tất cả đều có hình hài trạng thái năng lượng và ta
thấy họ có thể biến hóa hình dạng khác nhau. Ta nhìn thấy các tuệ linh làm việc
và bàn luận sự việc. Nhìn thấy sự giao tranh xung đột giữa các dòng năng lượng
với nhau, giữa các tầng năng lượng với nhau trong vũ trụ. Đặc biệt thông qua
thiền định sẽ thấy được các trạng thái năng lượng trong mỗi một con người đang
tốt hay xấu, đang xung đột giao tranh hay đang yên tĩnh, nhìn thấy tuệ linh hay
linh hồn thiết nhập vào em bé khi chào đời, nhìn thấy linh hồn hay tuệ linh rời
khỏi thân xác khi con người trút hơi thở cuối cùng.
4.2.2.
Hình tướng thể hiện ở sự phản chiếu của vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và
ngoài vũ trụ thông qua thiền định
Đó
là khi ta thiền định, ta thấy có nhiều dòng năng lượng xấu hoặc năng lượng tốt
đang xâm lấn, truyền vào, xung đột vào cơ thể ta, điều này cho ta nhận thấy có
các hình tướng tuệ linh hay quỷ, tinh tà nào đó đang tương tác di chuyển các
trạng thái năng lượng vào cơ thể ta. Khi đó ta có thể phân biệt được các trạng
thái năng lượng tốt hay xấu được truyền vào cơ thể ta để biết đó là các tuệ
linh tốt hay là tinh tà ma quỷ. Như vậy thông qua sự phản chiếu của năng lượng
mà thiền định nhìn thấy đã cho ta biết được hình tướng của các tuệ linh hay ma
quỷ.
4.2.3.
Hình tướng thể hiện ở sự phản chiếu của vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và
ngoài vũ trụ thông qua đôi tai, mũi và xúc giác
Khi
ta cảm thấy lạnh vai gáy, đau vai gáy, lạnh sống lưng, mất kiểm soát năng lượng
trong người. Điều đó có nghĩa là đang có hình tướng của ma quỷ tinh tà đang xâm
lấn năng lượng xấu vào cơ thể ta. Khi ta nghe những tiếng nói bên tai mà xung
quanh ta không có người thì đó là những âm thanh của các tuệ linh hay tinh tà
ma quỷ xâm lấn vào thính giác của ta. Khi ta nghe thấy những tiếng ồn ào tranh
cãi và những tiếng đổ vỡ của đồ vật ở chỗ nào đó mà ta không nhìn thầy thì ta
đã hình dung hình ảnh có nhiều người đang đánh nhau, đang tranh cãi điều gì đó.
Khi ta đang trong nhà mà nghe tiếng sấm thì ta chưa cần nhìn ra ngoài trời đã
biết là có cơn mưa đang mưa hoặc sắp mưa. Khi ta nghe thấy tiếng nói của ai đó
và ta có thể nhận biết được người nói đó là ai, do ta đã được ghi nhận giọng
nói đó với thân tướng đó. Khi ta ngửi thấy mùi hương thơm nước hoa thì ta cũng
nhận thấy được người dùng nước hoa thơm. Khi ta thấy nóng bức làm cho cơ thể ta
khó chịu trước khi bước ra khỏi nhà, ta nhận thấy thời tiết hôm đó oi bức và
nhiệt độ cao bởi nắng nóng của mặt trời. Khi ta thấy cơ thể ta lạnh buốt thì
cũng cho ta thấy thời tiết đã trở lạnh…
Như
vậy vạn vật, sự việc, hiện tượng dù là hiện hữu hay phản chiếu trong vũ trụ đều
là hình tướng, sự hiện hữu sẽ giúp cho ta nhận ra ngay hình tướng, sự phản
chiếu sẽ cho ta nhận ra hình tướng sau khi ta có trí tuệ bởi kinh nghiệm quan
sát vạn vật, tức là không có gì ngoài hình tướng trong và ngoài vũ trụ này.
4.2.4.
Bản chất tận cùng của hình tướng chính là sự cấu thành của thuyết tam hợp để
tạo thành các hình tướng mới
Bản
chất tận cùng của hình tướng chính là từ hạt năng lượng tận cùng cho đến vạn
vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài vũ trụ, trời và người, đều được hình
thành bởi 3 yếu tố: sóng trí tuệ, trạng thái năng lượng, hình tướng. Ba yếu tố
này biện chứng với nhau để trở thành một chỉnh thể thống nhất. Mỗi một yếu tố
chính là một hình tướng, mỗi một hình tướng chính là một chỉnh thể. Tuy là 3
yếu tố nhưng lại là một chỉnh thể, tuy là một chỉnh thể nhưng lại là 3 yếu tố.
a) Tam
hợp hạt năng lượng tận cùng
Tam hợp yếu tố cấu tạo thành hạt năng lượng tận
cùng gồm có sợi mã sóng trí tuệ, lượng trạng thái năng lượng và hình tướng hạt
năng lượng:
-
Yếu tố đầu tiên, là mã sóng trí tuệ. Mã sóng trí tuệ là điểm khởi
sinh và tạo thành hạt năng lượng. Nếu không có mã sóng trí tuệ thì sẽ không có
hình tướng của hạt và trạng thái năng lượng của hạt năng lượng. Mã sóng trí tuệ
được sinh ra do quá trình tương tác dựa trên lực tương tác giữa các hạt năng
lượng, giữa vạn vật, sự việc, hiện tượng của vũ trụ và trời người mà tạo ra. Mã
sóng trí tuệ là sợi dây có màu sắc đồng nhất với màu của trạng thái năng lượng
trong hạt năng lượng. Mã sóng trí tuệ có màu gì thì sẽ sinh phát ra trạng thái
năng lượng có cùng màu với sợi mã sóng trí tuệ.
-
Yếu tố thứ 2, là lượng trạng thái năng lượng. Màu sắc của lượng
trạng thái năng lượng trong hạt đồng nhất với màu sắc của mã sóng trí tuệ trong
hạt. Lượng trạng thái năng lượng có màu sắc, khối lượng, sức mạnh hay yếu là do
mã sóng trí tuệ quyết định. Khi mã sóng trí tuệ bắt đầu hình thành bởi sự rung
động do tương tác giữa các hạt năng lượng, giữa vạn vật, sự việc, hiện tượng,
khi đó bắt đầu sinh khởi trạng thái năng lượng. Quá trình tương tác cho đến khi
kết thúc đã tạo ra sợi mã sóng trí tuệ hoàn chỉnh có màu sắc. Khi đó màu sắc
của sợi mã sóng trí tuệ sẽ sinh tỏa ra màu sắc năng lượng với trạng thái tương
ứng.
-
Yếu tố thứ 3, là hình tướng của hạt năng lượng. Hình tướng của hạt
năng lượng là màng bọc trong suốt, nó bao bọc bảo vệ mã sóng trí tuệ và lượng
trạng thái năng lượng trong trường hợp cấu trúc mã sóng trí tuệ ổn định. Nếu
trong trường hợp cấu trúc mã sóng trí tuệ không ổn định hoặc bị tương tác đủ
lực sẽ làm thay đổi cấu trúc mã sóng trí tuệ. Khi đó hình tướng và trạng thái
năng lượng của hạt cũng bị thay đổi theo. Hình tướng được mô phỏng khi hình
thành sóng rung động và hình tướng hoàn chỉnh khi hoàn thành sợi mã sóng trí
tuệ.
Thiếu
đi một yếu tố nào thì sẽ không tồn tại hạt năng lượng. Hạt năng lượng chỉ tồn
tại khi có đủ 3 yếu tố cấu tạo thành chỉnh thể hạt năng lượng.
b) Tam
hợp nguyên tử
Tam hợp yếu tố cấu tạo thành 1 nguyên tử gồm
có liên kết giữa các sợi mã sóng trí tuệ, liên kết lượng trạng thái năng lượng
và liên kết hình tướng hạt năng lượng:
-
Yếu tố đầu tiên, là liên kết giữa các mã sóng trí tuệ của các hạt
năng lượng. Sự liên kết giữa các mã sóng trí tuệ tạo thành cấu trúc của 1
nguyên tử gồm có sóng điện âm, sóng điện dương, sóng điện trung tính. Sự liên
kết bởi các mã sóng trí tuệ theo cấu trúc nhất định sẽ sinh phát ra trạng thái
năng lượng có màu sắc đồng nhất với màu liên kết sóng trí tuệ.
-
Yếu tố thứ 2, là trạng thái năng lượng của nguyên tử. Trạng thái
năng lượng của nguyên tử có màu sắc, có sức mạnh hay yếu, đủ lực hay chưa đủ
lực chuyển hóa trạng thái năng lượng ở bên trong và bên ngoài nguyên tử là do
cấu trúc liên kết bởi các mã sóng trí tuệ trong liên kết hạt năng lượng của
nguyên tử.
-
Yếu tố thứ 3, là hình tướng của nguyên tử. Sự liên kết bởi các mã
sóng trí tuệ mang sóng điện âm, sóng điện dương, sóng điện trung tính đã tạo ra
hình tướng của nguyên tử. Hình tướng sẽ thay đổi khi sinh khởi sự liên kết mới
hay phân rã liên kết mã sóng trí tuệ trong nguyên tử đó.
c) Tam
hợp phân tử
Tam hợp yếu tố cấu tạo thành một phân tử gồm
có liên kết giữa các sợi mã sóng trí tuệ, liên kết lượng trạng thái năng lượng
và liên kết hình tướng hạt năng lượng ở quy mô nhiều nguyên tử (nhiều hạt năng
lượng có liên kết dây):
-
Yếu tố đầu tiên, là liên kết giữa các mã sóng trí tuệ của các hạt
năng lượng ở quy mô nhiều nguyên tử. Sự liên kết giữa các mã sóng trí tuệ của
nhiều nguyên tử tạo thành cấu trúc của 1 phân tử. Sự liên kết bởi các mã sóng
trí tuệ của hạt năng lượng ở quy mô lớn theo cấu trúc nhất định sẽ sinh phát ra
trạng thái năng lượng của phân tử đó.
-
Yếu tố thứ 2, là trạng thái năng lượng của phân tử. Trạng thái năng
lượng của phân tử có màu sắc, có sức mạnh hay yếu, đủ lực hay chưa đủ lực
chuyển hóa trạng thái năng lượng ở bên trong và bên ngoài phân tử là do cấu
trúc liên kết bởi các mã sóng trí tuệ trong liên kết hạt năng lượng của phân
tử.
-
Yếu tố thứ 3, là hình tướng của phân tử. Sự liên kết bởi các mã
sóng trí tuệ mang sóng điện âm, sóng điện dương, sóng điện trung tính ở quy mô
lớn hơn nguyên tử đã tạo ra hình tướng của phân tử. Hình tướng sẽ thay đổi khi
sinh khởi sự liên kết mới hay phân rã liên kết mã sóng trí tuệ trong phân tử
đó.
d) Tam
hợp tế bào
Tam hợp yếu tố cấu tạo thành 1 tế bào trong cơ
thể con người, muông thú gồm có liên kết giữa các sợi sóng trí tuệ, liên kết
lượng trạng thái năng lượng và liên kết hình tướng hạt năng lượng ở quy mô rất
lớn:
-
Yếu tố đầu tiên, là liên kết giữa các mã sóng trí tuệ của các hạt
năng lượng ở quy mô rất lớn, chứa đựng sóng điện âm, sóng điện dương, sóng điện
trung tính. Sự liên kết bởi các mã sóng trí tuệ có sóng điện âm, sóng điện
dương, sóng điện trung tính theo cấu trúc nhất định sẽ sinh phát ra trạng thái
năng lượng có màu sắc đồng nhất với màu liên kết sóng trí tuệ.
-
Yếu tố thứ 2, là trạng thái năng lượng của tế bào. Trạng thái năng
lượng của tế bào có màu sắc, có sức mạnh hay yếu, liên kết chặt hay lỏng lẻo là
do cấu trúc liên kết bởi các mã sóng trí tuệ trong liên kết hạt năng lượng ở
quy mô rất lớn.
-
Yếu tố thứ 3, là hình tướng của tế bào. Sự liên kết bởi các mã sóng
trí tuệ mang sóng điện âm, sóng điện dương, sóng điện trung tính ở quy mô lớn
đã tạo ra hình tướng của tế bào. Hình tướng sẽ thay đổi khi sinh khởi sự liên
kết mới chặt hơn hay phân rã làm thay đổi hình tướng của tế bào.
e) Tam
hợp nước
Tam hợp yếu tố cấu tạo thành nước (giọt nước,
hồ nước, biển nước) bao gồm, liên kết giữa các sợi mã sóng trí tuệ, liên kết
lượng trạng thái năng lượng và liên kết hình tướng hạt năng lượng ở quy mô vô
cùng lớn:
-
Yếu tố đầu tiên, là liên kết giữa các mã sóng trí tuệ của các hạt
năng lượng ở quy mô vô cùng lớn, chứa đựng sóng điện âm, sóng điện dương, sóng
điện trung tính. Sự liên kết bởi các mã sóng trí tuệ có sóng điện âm, sóng điện
dương, sóng điện trung tính ở quy mô vô cùng lớn theo cấu trúc nhất định sẽ
sinh phát ra trạng thái năng lượng có màu sắc đồng nhất với màu liên kết sóng
trí tuệ.
-
Yếu tố thứ 2, là trạng thái năng lượng của nước. Trạng thái năng
lượng của nước có màu sắc, có sức mạnh hay yếu, liên kết lỏng lẻo là do cấu
trúc liên kết bởi các mã sóng trí tuệ trong liên kết hạt năng lượng ở quy mô vô
cùng lớn.
-
Yếu tố thứ 3, là hình tướng của nước (giọt nước, sông, hồ, biển nước).
Sự liên kết bởi các mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm, sóng điện dương, sóng
điện trung tính ở quy mô lớn khác nhau đã tạo ra hình tướng của nước cũng khác
nhau. Hình tướng sẽ thay đổi khi sinh khởi gia tăng sự liên kết mới hay phân rã
làm thay đổi hình tướng của nước. Khi đó có thể từ hồ nước bốc hơi và cạn hồ
nước, có thể là nhiều giọt nước do mưa mà trở thành hồ nước.
f) Tam
hợp cây
Tam hợp yếu tố cấu tạo thành cây bao gồm, liên
kết giữa các sợi mã sóng trí tuệ, liên kết lượng trạng thái năng lượng và hình
tướng cây:
-
Yếu tố đầu tiên, là liên kết giữa các mã sóng trí tuệ của các hạt
năng lượng ở quy mô vô cùng lớn, chứa đựng sóng điện âm, sóng điện dương, sóng
điện trung tính do cơ chế phân tách và liên kết chặt. Sự liên kết và cơ chế
phân tách ở quy mô vô cùng lớn theo cấu trúc nhất định sẽ sinh phát ra trạng
thái năng lượng có màu sắc đồng nhất với màu liên kết sóng trí tuệ.
-
Yếu tố thứ 2, là trạng thái năng lượng của cây. Trạng thái năng
lượng của cây có màu sắc, có sức mạnh hay yếu, liên kết chặt là do cấu trúc
liên kết bởi các mã sóng trí tuệ trong liên kết hạt năng lượng ở quy mô vô cùng
lớn.
-
Yếu tố thứ 3, là hình tướng của cây (từ cây mầm cho đến cây trưởng
thành). Sự liên kết bởi các mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm, sóng điện dương,
sóng điện trung tính ở quy mô lớn đã tạo ra mầm cây. Hình tướng cây thay đổi,
từ cây mầm cho đến to lớn là do cơ chế phân tách hạt năng lượng với cơ chế liên
kết chặt đã làm cho hình tướng cây thay đổi theo thời gian.
Ví
dụ: khi ta gieo trồng 1 cây mầm, trải qua quá trình phân tách hạt năng lượng và
cơ chế liên kết chặt dần của mã sóng trí tuệ trong các hạt năng lượng được phân
tách. Có sự tác động của nhiệt độ, dinh dưỡng đã làm cho cây mầm trưởng thành
và trở thành cây cổ thụ sau một lượng thời gian nhất định. Ta nhìn thấy cây là
hình tướng, trong cây có trạng thái năng lượng, trong trạng thái năng lượng có
mã sóng trí tuệ chuyển hóa mà tạo ra oxy giúp mang lại sự sống cho trái đất.
Như vậy, ta thấy đơn giản là cây có trí tuệ cải tạo môi trường sống.
g) Tam
hợp đất, đá, vạn vật
Tam hợp yếu tố cấu tạo thành đất, đá, vạn vật,
bao gồm, liên kết giữa các sợi mã sóng trí tuệ, liên kết lượng trạng thái năng
lượng và hình tướng:
-
Yếu tố đầu tiên, là liên kết giữa các mã sóng trí tuệ của các hạt
năng lượng ở quy mô vô cùng lớn, chứa đựng sóng điện âm, sóng điện dương, sóng
điện trung tính do cơ chế phân tách và liên kết chặt. Sự liên kết và cơ chế
phân tách ở quy mô vô cùng lớn theo cấu trúc nhất định sẽ sinh phát ra trạng
thái năng lượng có màu sắc đồng nhất với màu liên kết sóng trí tuệ.
-
Yếu tố thứ 2, là trạng thái năng lượng của đất, đá, vạn vật. Trạng
thái năng lượng của đất, đá, vạn vật có màu sắc, có sức mạnh hay yếu, liên kết
chặt hay lỏng lẻo là do cấu trúc liên kết bởi các mã sóng trí tuệ trong liên
kết hạt năng lượng ở quy mô vô cùng lớn.
-
Yếu tố thứ 3, là hình tướng của đất, đá, vạn vật. Sự liên kết bởi
các mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm, sóng điện dương, sóng điện trung tính ở
quy mô lớn đã tạo ra đất, đá, vạn vật. Hình tướng đất, đá, vạn vật thay đổi là
do cơ chế phân tách hạt năng lượng với cơ chế liên kết chặt đã làm cho hình
tướng đất, đá, vạn vật thay đổi theo thời gian.
Ví
dụ: một cây cổ thụ bị vùi trong lòng đất. Trải qua thời gian, nhiệt độ, cơ chế
phân tách, và liên kết đạt độ chặt sẽ khiến cho thân cây hóa thành đá. Như thế,
ta sẽ nhìn thấy hình tướng là khối đá, trong khối đá đó có năng lượng tỏa ra,
trong năng lượng lại có mã sóng trí tuệ liên kết chặt với nhau. Đơn giản là đá
có giá trị cải tạo năng lượng môi trường tốt hơn nhờ năng lượng và trí tuệ
trong đá.
h) Tam
hợp tuệ linh (chư thần, trời)
Tuệ
linh là linh khí kết tụ (tổ hợp liên kết của các hạt năng lượng có mã sóng trí
tuệ rất phức tạp) có trí tuệ di chuyển và cải tạo trong không gian vũ trụ. Tuệ
linh chính là dạng sống giống hình hài con người ở khắp các cõi trời (hành
tinh). Tuệ linh chính là chư thần, thánh thần, phật, chúa, trời… theo quan điểm
tôn giáo. Tuệ linh chính là người ngoài hành tinh, theo cách gọi của khoa học
đang tìm kiếm sự sống giống con người ngoài trái đất. Tuệ linh không phải do ai
đó, hay do tuệ linh nào sinh ra. Tuệ linh là do hạt năng lượng có mã sóng trí
tuệ rất phức tạp mang sóng điện âm và hạt năng lượng có mã sóng trí tuệ rất
phức tạp mang sóng điện dương hợp lại thành phôi âm dương (trụ linh) và hình
thành tuệ linh.
Tam
hợp yếu tố hợp thành tuệ linh gồm có 3 yếu tố là trụ linh (cấu trúc mã sóng trí
tuệ tổng), trạng thái năng lượng, hình tướng tuệ linh:
-
Yếu tố đầu tiên là trụ linh (cấu trúc mã sóng trí tuệ tổng). Trụ
linh chính là hai hạt năng lượng gốc, một hạt âm, một hạt dương hợp lại tạo
thành trụ linh, trải qua thời gian, trụ linh phân tách hạt năng lượng do tương
tác sinh nhiệt để hình thành em bé tuệ linh, tuệ linh lớn và trưởng thành qua
thời gian. Trụ linh là nơi chứa đựng các sợi mã sóng trí tuệ của tuệ linh từ
khi bắt đầu hình thành phôi âm dương gốc cho đến khi trưởng thành, di chuyển và
cải tạo vũ trụ để trau dồi mã sóng trí tuệ vào trong trụ linh. Trụ linh chính
là nơi kết tụ các mã sóng trí tuệ của tuệ linh, nên từ trụ linh sẽ sinh phát ra
trạng thái năng lượng cho tuệ linh. Cấu trúc mã sóng trí tuệ tổng trong trụ
linh mang sóng điện như thế nào thì sẽ sinh phát ra màu sắc, sức mạnh năng
lượng cho tuệ linh tương ứng.
-
Yếu tố thứ 2, là trạng thái năng lượng. Trạng thái năng lượng được
sinh phát từ trụ linh. Trụ linh chứa đựng tất cả các mã sóng trí tuệ của tuệ
linh. Từ trụ linh, tỏa sóng điện đến khắp các mã sóng của các hạt năng lượng
trong tuệ linh bởi cơ chế liên kết chuỗi và cơ chế phân tách hạt năng lượng trong
tuệ linh. Tổng hòa mã sóng trí tuệ của tuệ linh mạnh hay yếu, sóng âm vượng hay
sóng dương vượng… sẽ sinh phát ra thành trạng thái năng lượng và hào quang cho
tuệ linh.
-
Yếu tố thứ 3, là hình tướng tuệ linh. Tuệ linh có hình tướng giống
con người, hay nói cách khác thì con người là bản sao của các tuệ linh. Tuệ
linh vì là linh khí kết tụ (tổ hợp liên kết của các hạt năng lượng có mã sóng
trí tuệ rất phức tạp) nên có thể biến hóa thay đổi hình tướng, thay đổi diện
mạo. Cấu trúc hình tướng của tuệ linh sẽ thay đổi do cấu trúc sóng điện trong
trụ linh của tuệ linh. Đặc tính sóng điện trong trụ linh gồm có sóng điện
dương, có sóng điện âm, có sóng điện trung tính để trung hòa sóng điện âm
dương. Cấu trúc vững chắc của trụ linh chính là trụ linh trở thành bộ lọc năng
lượng viên mãn. Cấu trúc trụ linh lỏng lẻo dễ bị hoại diệt tuệ linh là cấu trúc
trụ linh có sóng điện đa âm.
Thông
qua thuyết tam hợp tuệ linh, ta thấy hình tượng thiên chúa, phật, thánh thần
không có gì là huyền bí, không có gì là mê tín, không có gì là siêu nhiên, cũng
không phải là duy tâm. Bản chất đều là vật chất, có chăng vật chất này tồn tại
ở thể mã sóng trí tuệ rất phức tạp nên khoa học và phương tiện kỹ thuật không
thể đo hay thấy được.
i) Tam
hợp hành tinh
Tam hợp yếu tố cấu tạo thành một hành tinh gồm
có, liên kết giữa vô số các sợi mã sóng trí tuệ, liên kết lượng trạng thái năng
lượng và hình tướng hành tinh:
-
Yếu tố đầu tiên, là liên kết giữa các mã sóng trí tuệ của các hạt
năng lượng ở quy mô vô cùng lớn, chứa đựng sóng điện âm, sóng điện dương, sóng
điện trung tính do cơ chế phân tách và liên kết chặt. Sự liên kết và cơ chế
phân tách ở quy mô vô cùng lớn theo cấu trúc nhất định sẽ sinh phát ra trạng
thái năng lượng cho hành tinh.
-
Yếu tố thứ 2, là trạng thái năng lượng của hành tinh. Trạng thái
năng lượng của hành tinh có lực hút hay lực đẩy, mức năng lượng như thế nào là
do sóng điện trong liên kết của vô số mã sóng trí tuệ của vô số hạt năng lượng
cấu tạo thành hành tinh đó.
-
Yếu tố thứ 3, là hình tướng của hành tinh. Sự liên kết bởi các mã
sóng trí tuệ mang sóng điện âm, sóng điện dương, sóng điện trung tính ở quy mô
vô cùng lớn đã tạo ra hành tinh. Cấu trúc hình tướng sẽ thay đổi nếu cấu trúc
liên kết mã sóng trí tuệ của hành tinh đó thay đổi hay bị tương tác từ hình
tướng bên ngoài làm thay đổi cấu trúc mã sóng trí tuệ của hành tinh đó.
j) Tam
hợp nhân (con người)
Tam hợp yếu tố tạo ra con người gồm có, thân
tướng, tâm (tuệ linh), trí tuệ:
-
Yếu tố đầu tiên là Thân tướng. Thân tướng được hình thành do duyên
người cha và người mẹ. Đó là tinh trùng mang tính dương của người cha và trứng
mang tính âm của người mẹ hợp thành phôi thai. Phôi thai nhi sẽ trưởng thành
trong bụng người mẹ do cơ chế phân tách tế bào bởi năng lượng, dinh dưỡng và
nhiệt độ của người mẹ. Trải qua quãng thời gian khoảng 9 tháng, khi thân tướng
em bé đã hoàn thiện, em bé được sinh ra, cất tiếng khóc chào đời.
-
Yếu tố thứ hai là Tâm. Tâm là trạng thái năng lượng an trụ trong
thân tướng để tạo ra, duy trì sự sống cho con người. Khi người mẹ mang thai đến
tháng thứ 7, theo luật luân hồi của hội đồng tuệ linh thì sẽ có một tuệ
linh được xuống luân hồi đầu thai hoặc tuệ linh tiếp tục đầu thai sau khi trải
qua các kiếp sẽ đi theo bảo vệ bà mẹ và em bé. Hoặc là linh hồn của muông thú
được thuần hóa thành thú lành trong nhiều kiếp, chúng giúp đỡ được con người
nên linh hồn của chúng có đủ sức mạnh năng lượng của sự giúp đỡ con người và
không sát hại con thú khác sẽ được hội đồng tuệ linh cho phép đi theo bảo vệ bà
mẹ và thai nhi để thiết nhập đầu thai. Khi em bé chào đời và cất tiếng khóc thì
đó là dấu hiệu tuệ linh hay linh hồn thiết nhập vào để duy trì sự sống cho thân
tướng. Theo luật luân hồi, để linh hồn của các con thú được phép đầu thai làm
con người thì chúng phải được thuần hóa bởi con người; chúng phải giúp đỡ và
làm được nhiều việc có lợi ích cho con người; những việc lợi ích đó tạo thành
năng lượng tốt có sự cân bằng sóng điện âm dương; khi có năng lượng tốt và có
sự cân bằng sóng điện âm dương mới được phép đầu thai làm người, và mới có đủ
năng lượng duy trì sự sống một kiếp người. Tuy nhiên, nhiều linh hồn thú dữ
không muốn tuân theo luật luân hồi, nên chúng đi tác động giết hại con người,
lấy nguyên khí để đủ sức mạnh đầu thai trộm; nếu chúng đầu thai trộm thành
người thành công, lớn lên chúng sẽ có thiên hướng giết hại, làm điều ác. Nếu
linh hồn thú dữ chưa giết hại được người nào mà đầu thai trộm được thì dễ chết
yểu do không đủ năng lượng âm dương cân bằng để duy trì sự sống. Khi tuệ linh hay
linh hồn được đi đầu thai, họ sẽ được chọn quốc gia, dân tộc, dòng họ, cha mẹ
để người cha mẹ được gieo duyên có thân tướng thai nhi. Phải đến tháng thứ 7
thì tuệ linh, linh hồn mới đi theo để chờ ngày sinh; vì ở tháng thứ 7, nếu em
bé có sinh non thì vẫn đảm bảo sống được, ở tháng thứ 7 người mẹ không thể phá
thai được. Như vậy, tháng thứ 7 là đảm bảo điều kiện an toàn cho các tuệ linh,
linh hồn đi đầu thai được thành công, còn em bé trong bụng mẹ sẽ được tuệ linh
người mẹ bảo vệ và nuôi dưỡng. Dù là tuệ linh hay linh hồn khi đầu thai vào con
người đều được gọi là Tâm.
-
Yếu tố thứ 3 là trí tuệ. Sau khi tuệ linh hoặc linh hồn thiết nhập
vào em bé vừa chào đời để tạo ra năng lượng duy trì sự sống cho em bé đó. Em bé
đó trải qua quá trình lớn lên, học tập, nghiên cứu, lao động, mưu sinh sẽ phát triển tư
duy trí tuệ, đúc kết các kinh nghiệm sống, kinh nghiệm xử lý
và cải tạo thế giới quan được gọi là trí tuệ. Bản chất trí tuệ của con
người chính là tổng hợp các mã sóng trí tuệ được trau dồi trong cuộc sống tích
tụ vào tâm (trụ linh của tuệ linh) và phản chiếu ở não bộ của con người.
Bản
chất trong thân tướng của con người đã là tam hợp thân tướng: vô số các mã sóng
trí tuệ, năng lượng từ các mã sóng trí tuệ, hình tướng thân tướng. Như vậy, con
người là tổng hợp giữa tuệ linh (năng lượng có trí tuệ) và thân tướng. Do đó,
con người là sự sống phức tạp nhất trong vũ trụ, thứ tiếp mới đến tuệ linh, bởi
tuệ linh khi không đầu thai làm người thì không có an trụ trong thân
tướng vật chất.
k) Tam
hợp muông thú
Tam
hợp yếu tố tạo thành muông thú bao gồm, thân tướng, trạng thái năng lượng (linh
hồn), trí tuệ:
-
Yếu tố đầu tiên là thân tướng. Thân tướng là do duyên của con thú
đực với con thú cái, chúng giao phối tạo ra phôi âm dương.
Phôi
âm dương lớn lên trong bụng con thú cái hoặc phôi âm dương hình thành phát
triển trong quả trứng. Khi con thú con phát triển
trong bụng con thú mẹ hoặc trong quả trứng đến ngày sẽ được sinh ra, đó là thân
tướng của
con thú. Khi con
thú con được sinh, linh hồn sẽ thiết nhập vào thân tướng.
Thân tướng trưởng thành từ phôi âm dương là do cơ chế phân tách tế bào bởi
nhiệt độ, dinh dưỡng và năng lượng.
-
Yếu tố thứ 2, là linh hồn. Linh hồn là trạng thái năng lượng
âm dương cân bằng đã được hội đồng tuệ linh gieo duyên bằng
phôi năng lượng âm dương để có khả năng duy trì sự sống, khi thân tướng của
muông thú được sinh ra khỏi con thú mẹ thì linh hồn sẽ thiết nhập vào để duy
trì sự sống cho muông thú.
-
Yếu tố thứ 3, là trí tuệ. Sau khi những con thú
được sinh ra, chúng sẽ học tập theo những con thú lớn hơn về việc đi đứng, ăn
uống, săn mồi, phân biệt nguy hiểm và liên kết với đồng loại để bảo vệ nhau.
Kinh
nghiệm sinh tồn và phát triển trong thế giới quan của chúng được gọi là Trí tuệ.
Bản chất là tổng hợp các mã sóng trí tuệ có được trong cuộc sống để truyền vào
phôi âm dương gốc trong linh hồn chúng.
Như
vậy, đối với muông thú cũng được hình thành bởi 3 hình tướng hợp thành con thú
hoàn chỉnh. Còn tổ tiên của muông thú chính là năng lượng âm dương do hội đồng
tuệ linh tạo ra.
l) Tam
hợp hiện tượng
Tất cả các hiện tượng, tia sét, chớp, mưa,
nắng, bão… đều được hình thành bởi thuyết tam hợp. Đó là các mã sóng trí tuệ
mang sóng điện âm hay dương hay trung tính; đó là năng lượng phát ra từ sóng
điện của mã sóng trí tuệ; đó là hình tướng của tia sét, tia chớp, mưa, nắng… Do
đó, bất cứ hiện tượng nào trong vũ trụ đều do tam hợp yếu tố mà tạo thành.
m) Tam hợp sự việc
Sự việc bao gồm: hội họp, làm việc, bàn bạc,
trao đổi… giữa người với người, giữa người với muông thú, giữa người với tuệ
linh, giữa tuệ linh với tuệ linh, giữa muông thú với muông thú… Sự việc cũng là
do tam hợp yếu tố mà thành. Đó là hình tướng của sự việc (nhiều người, nhiều
tuệ, nhiều muông thú đang trao đổi, bàn bạc); đó là trí tuệ được sinh phát ra
từ nhiều người, tuệ linh, muông thú; đó là năng lượng của sự việc được phát ra
từ trí tuệ của sự việc. Như vậy, ta thấy ngay cả sự việc cũng được hình thành
bởi thuyết tam hợp.
n) Tam
hợp vũ trụ
Tam hợp yếu tố cấu tạo thành vũ trụ gồm có,
liên kết giữa vô số các sợi mã sóng trí tuệ, liên kết lượng trạng thái năng
lượng và liên kết hình tướng giữa các hành tinh với nhau trong toàn bộ vũ trụ.
Chỉ có một vũ trụ duy nhất và còn lại là không gian vô cùng vô tận của năng
lượng hoại diệt. Vũ trụ có hình tướng giống như một tinh cầu hình tròn khổng
lồ, chứa đựng vô số giải ngân hà. Vũ trụ luôn vận động, đó là vũ trụ luôn quay
tròn để sinh nhiệt nhằm tồn tại và phát triển sự sống khắp vũ trụ.
Thậm
chí, hạt sóng tổ tiên cũng là một hình tướng. Hình tướng này có sóng trí tuệ,
có hình hài là chấm nhỏ và năng lượng chưa sinh phát.
Như
vậy, bản chất tận cùng của hình tướng chính là cơ chế liên kết, phân tách hạt
năng lượng, tam hợp mà cấu tạo thành từ hạt năng lượng tận cùng cho đến chỉnh
thể vật chất, vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài vũ trụ, trời và
người. Quá trình liên kết từ hình tướng hạt năng lượng và tam hợp giữa các hình
tướng sẽ giúp cho từ hình tướng ban đầu chuyển thành các hình tướng mới, điều
này giúp cho đa dạng các hình tướng trong và ngoài vũ trụ, trời và người.
Thấu
hiểu thuyết hạt năng lượng, thuyết tam hợp, cơ chế phân tách, liên kết, ta sẽ
hiểu tất cả trong và ngoài vũ trụ, trời và người đều là vật chất. Những vật
chất ở hạt năng lượng tận cùng, các siêu năng lượng, các dạng sống ở thể năng
lượng mà khoa học chưa chứng thực được nên nhân loại mới chia ra làm duy tâm và
duy vật.
4.3. Chân lý vạn vật –
Vô (duyên)
Chân
lý vạn vật là: “Vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài vũ trụ không tự
sinh ra, không tự mất đi, khổ đau không tự đến, khổ đau không tự đi, tất cả do
duyên nghiệp hay còn gọi là nhân quả”.
Như
vậy ứng dụng chân lý vạn vật trong hình tướng sẽ là: “Hình tướng không tự sinh
ra, hình tướng không tự mất đi, khổ đau của hình tướng không tự đến và không tự
đi, tất cả do duyên nghiệp hay còn gọi là nhân quả”.
Chân
lý vạn vật chính là luật nhân quả, chính là chữ Vô, Vô là tướng không, vì nó
không bất tử, vì nó không vĩnh cửu, vì nó không trường tồn, nó chỉ tồn tại
trong khoảng thời gian nhất định rồi lại chuyển hóa sang tướng khác do duyên.
Do đó chân lý vạn vật, luật nhân quả được đúc kết thành chữ duyên, duyên chính
là tướng không. Thấu hiểu chữ duyên thì ta sẽ thấu hiểu được quá khứ, hiện tại
và vị lai, khi ta thấu hiểu duyên trong duyên thì đó là ta đang đi truy tìm căn
nguyên quá khứ để mà có kết quả là hình tướng hiện tại, khi ta thấu hiểu duyên
ngoại duyên thì việc ta đã và đang gieo duyên hiện tại, sẽ cho ta thấy được kết
quả là hình tướng trong tương lai.
Con
người tồn tại, hiện hữu ở kiếp người này cần phải trả lời được 3 câu hỏi: 1- Ta
là ai? Hoặc ai là ta? Trả lời được câu hỏi này sẽ giúp ta thấu hiểu quá khứ
trong vô lượng kiếp, ta đến từ đâu, phẩm vị đã đạt được. 2- Sứ mệnh của ta ở
kiếp này? Khi thấu hiểu được ta là ai, các kiếp tu hành trong quá khứ và phẩm
vị đã đạt được thì ta sẽ biết sứ mệnh của ta tại kiếp này, đó là hiện tại. 3-
Chết xong ta đi về đâu? Làm được sứ mệnh hay không làm được sứ mệnh thì ta đã
trả lời được vị lai của ta sẽ phải luân hồi đảo kiếp hay đọa thành súc sinh,
ngã quỷ, địa ngục hay được trở về các cõi nhiệm màu hơn. Ta không những phải
trả lời được và làm tốt nhiệm vụ ở 3 câu hỏi trên cho ta, mà còn phải trả lời
được 3 câu hỏi đó của vạn vật: vạn vật là gì? Sứ mệnh của vạn vật? Chết xong
vạn vật đi về đâu?
Cơ
chế phân tách, liên kết dây của chân lý vạn vật sẽ trả lời được 3 câu hỏi trên.
Truy tìm duyên trong duyên sẽ giúp ta thấu hiểu được quá khứ, thấu hiểu được ta
là ai, phẩm vị đã đạt được. Thân tướng hiện tại sẽ cho ta thấy sứ mệnh của ta ở
kiếp hiện tại. Việc gieo duyên để có được duyên ngoại duyên sẽ giúp ta trả lời
được vị lai ta sẽ đi về đâu sau khi chết.
4.3.1.
Duyên trong duyên
Đó
là việc ta truy tìm nguyên nhân của sự hợp thành các tướng trong quá khứ mà
hiện hữu tướng hiện tại:
a) Vạn vật: vạn vật đang hiện hữu và phản chiếu hiện tại là do đâu, do yếu
tố nào hợp thành mà có, trước khi có hình tướng hiện tại thì các hình tướng quá
khứ như thế nào.
Quyển
sách là hiện tại, nó được hợp lại bởi nhiều trang giấy, giấy được làm từ gỗ của
thân cây. Như vậy thân cây là quá khứ của trang giấy trong quyển sách, trước khi
có thân cây thì quá khứ của thân cây là hạt cây, quá khứ của hạt cây là quả,
quá khứ của quả là hoa, quá khứ của hoa là thân cây, quá khứ của thân cây là
hạt cây, và quá khứ của hạt cây là phôi năng lượng âm dương do Đấng tạo hóa
gieo ra.
Chiếc
cốc thủy tinh là hiện tại. Quá khứ của cốc thủy tinh là những tinh thể Silic
được khai thác trong cát, quá khứ của cát là trầm tích của đất đá và xác của
vạn vật, là sự hóa thạch của của cỏ cây, quá khứ của cỏ cây là phôi năng lượng
âm dương do Đấng tạo hóa gieo ra.
Ngôi
nhà là hiện tại. Quá khứ của ngôi nhà là gạch, cát, đá, sắt, gỗ, kính hợp lại
với chủ nhà và nhóm thợ xây dựng mà thành ngôi nhà. Quá khứ của sắt là do khai
thác quặng trong lòng đất để luyện thành, quá khứ của quặng là trầm tích của
đất đá, quá khứ của chúng là phôi năng lượng âm dương do Đấng tạo hóa gieo ra.
Các yếu tốt như gạch, cát, đá, gỗ, kính đều dùng duyên trong duyên sẽ truy tìm
về cội nguồn là được hình thành từ phôi năng lượng âm dương do Đấng tạo hóa
gieo ra.
Muông
thú cũng vậy. Con sư tử hiện tại thì quá khứ của nó được sinh ra từ con sư tử
mẹ do con sư tử mẹ giao phối với con sử tử đực. Con sư tử bố hay mẹ đều được
sinh ra do sự giao phối bởi con sư tử bố và mẹ của nó. Cứ truy tìm duyên trong
duyên, tức truy tìm cội nguồn quá khứ ta sẽ thấy nó được hình thành từ phôi
năng lượng âm dương mà Đấng tạo hóa gieo ra. Tuyệt nhiên không phải sư tử tiến
hóa từ mèo hay loài động vật nào, nếu sư tử được tiến hóa từ mèo hay loài động
vật nào thì loài đó được tiến hóa từ đâu?
Tất
cả vạn vật và muông thú đều được hình thành dựa trên quá trình mà Đấng tạo hóa
gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm dương khác nhau trên khắp trái đất, để
trải qua thời gian dài do tam hợp và cơ chế phân tách liên kết dây mà hình
thành sự sống với sự phong phú đa dạng về muôn loài và tài nguyên thiên nhiên
hiện hữu. Tất cả sự sống có sự cân bằng năng lượng âm dương như muông thú, cỏ
cây, loài người, vi sinh vật… đều được hình thành từ phôi năng lượng âm dương
cân bằng, và đều do Đấng tạo hóa gieo duyên mà tạo thành. Còn vạn vật, hình
tướng do con người tạo ra cũng là sự kế thừa năng lực gieo duyên hợp lại từ
nhiều hình tướng để tạo ra các hình tướng mới có lợi ích cho con người.
b) Con người: Tôi, anh, chị, bạn, đang ở thời điểm hiện tại. Vậy trước khi
được cha mẹ hợp duyên lại sinh ra ta thì ta là ai? Khi thiền định quán sẽ thấy
có ta ở kiếp trước, khi thiền quán tiếp sẽ thấy ta đã trải qua nhiều kiếp, và
thiền quán tiếp, nhiều người sẽ thấy mình sống ở thời kỳ ăn hang ở lỗ. Thiền
quán tiếp có người sẽ thấy mình được Đấng tạo hóa đưa xuống nhân gian tu hành
đầu tiên nhất của loài người để xây dựng nhân loại. Thiền quán tiếp thì thấy là
trước khi ta xuống nhân gian thì ta là 1 tuệ linh trên cõi trời của Đấng tạo
hóa. Có người thiền quán thì thấy kiếp này mới là kiếp người đầu tiên và cũng
thấy mình là tuệ linh ở trên cõi trời của Đấng tạo hóa. Có người thấy rằng mình
đã nhiều kiếp làm muông thú và được làm người ở kiếp này hay được làm người mới
có vài kiếp. Có người thiền quán thấy mình trải qua nhiều kiếp tu hành. Có
người thấy mình từng có kiếp làm vua, có kiếp làm thương nhân, có kiếp làm
người bệnh tật, có kiếp làm binh lính, có kiếp là thầy đồ dạy học, có kiếp làm
người nông dân, có kiếp làm thầy tu, có kiếp làm đạo sĩ. Có nhiều người thiền
quán đã biết được rằng trước khi luân hồi làm người kiếp này thì đã đạt được
phẩm vị nào đó trong việc cải tạo thế giới quan ở nhiều kiếp trước, như có
người đã đắc Phật vị, có người đã đắc Bồ tát, có người đắc bậc Thánh nhân. Có
người thiền quán thấy trong nhiều kiếp trước tạo ra vô số nghiệp lực, trải qua
vô số kiếp làm súc sinh cũng như bị đọa trong địa ngục và ngã quỷ… Nhưng khi
thiền quán để truy tìm duyên trong duyên của chính ta, của ai đó, của loài
người thì thấy rằng tất cả đều là tuệ linh từ cõi trời của Đấng tạo hóa hoặc là
linh hồn của muông thú được luân hồi đầu thai vào thai nhi của bà mẹ để tồn tại
các kiếp trong quá khứ và hiện kiếp. Ta cũng biết là linh hồn của muông thú
cũng là năng lượng âm dương có mã sóng trí tuệ phức tạp do Đấng tạo hóa tạo ra
và gieo xuống nhân gian để xây dựng môi trường tu hành. Các tuệ linh cũng là
năng lượng âm dương cân bằng có mã sóng trí tuệ rất phức tạp, được Đấng tạo hóa
đưa xuống nhân gian xây dựng nhân loại và môi trường tu hành. Như vậy tổ tiên
của loài người là dạng sống tuệ linh từ cõi trời của Đấng tạo hóa xuống nhân
gian tu hành. Tổ tiên của muông thú cũng là năng lượng âm dương do Đấng tạo hóa
gieo ra mà hình thành. c) Tuệ linh: Tuệ linh là cội nguồn của loài người. Vậy
tổ tiên của họ là từ đâu? Khi thiền quán sẽ thấy họ được hình thành từ quá
trình phân tách mã sóng trí tuệ từ trụ linh của vị Tuệ linh đầu tiên trong quả
tinh cầu năng lượng khổng lồ. Đó là vụ nổ siêu năng lượng đã sản sinh ra vị Tuệ
linh đầu tiên, vị Tuệ linh đầu tiên phân tách mã sóng trí tuệ và hạt năng lượng
từ trong trụ linh mà tạo ra năm nhóm năng lượng, tạo ra các tuệ linh, tạo ra
vạn vật vũ trụ bởi cơ chế liên kết dây và tam hợp hình tướng. Vậy, vị Tuệ linh
đầu tiên được sinh ra do đâu? Vị Tuệ linh đầu tiên được sinh ra do sự phân tách
của hạt sóng tổ tiên mà tạo thành hạt năng lượng có sóng điện âm, sóng điện
dương. Khi đó hai hạt gặp nhau mà chuyển hóa thành phôi năng lượng âm dương để
tạo thành vị Tuệ linh đầu tiên cũng như vụ nổ siêu năng lượng. Còn việc hỏi hạt
sóng tổ tiên do cái gì sinh ra thì tôi xin giữ bí mật, bởi có truy tìm cội
nguồn bằng chân lý vạn vật sẽ không tìm đến đích của sự thỏa mãn tìm tòi.
Như
vậy tìm hiểu và thấu được duyên trong duyên của chân lý vạn vật, đã giúp cho
loài người và vạn vật biết được ta là ai, ai là ta, cội nguồn của ta ở đâu, và
ta phải làm gì dưới nhân gian trong các kiếp người cũng như kiếp hiện tại.
4.3.2.
Hiện tại kiếp này ta phải làm gì (sứ mệnh)
Khi
chúng ta thông qua thiền quán và chân lý vạn vật để thấu hiểu được tổ tiên của
loài người, của vạn vật, thấu hiểu được kế hoạch xây dựng nhân loại của Đấng
tạo hóa. Đó là tạo ra một môi trường tu hành cho các tuệ linh tu hành trong khổ
đau kiếp nạn để cải tạo được trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Phải trải qua
hết tất cả khổ đau kiếp nạn trong nhiều kiếp để cải tạo thành công mới được trở
về. Những lời truyền dạy của ngài sẽ cho ta thấy được sứ mệnh chung cho cả nhân
loại và sứ mệnh riêng cho mỗi người.
Sứ mệnh chung: tất cả mọi người trên trái đất
này phải cùng nhau đoàn kết, cùng nhau xây dựng nhân loại phát triển. Thấu hiểu
luật nhân quả, không vi phạm vào luật nhân quả để cải tạo tâm cho chính mình và
giúp đỡ nhau cải tạo tâm. Đón nhận, đối mặt và vượt qua hết tất cả các khổ đau
kiếp nạn để thấu hiểu nhân quả và thông qua đó để cải tạo trụ linh của tuệ linh
đang an trụ trong thân tướng mỗi người. Sứ mệnh chung này sẽ được thực hiện
trong nhiều kiếp, từ quá khứ cho đến hiện tại và vị lai, tất cả con người đều
phải trải qua và đến được đích của sự cải tạo trụ linh thành bộ lọc năng lượng
viên mãn. Sứ mệnh riêng: mỗi con người tồn tại ở kiếp
người hiện tại không những phải thực hiện sứ mệnh chung trong nhiều đời và
nhiều kiếp, mà mỗi một kiếp hiện hữu sẽ có những sứ mệnh riêng khác nhau. Sự
khác nhau thể hiện qua mức độ cải tạo đã đạt được trong nhiều kiếp hay nghiệp
lực đã tạo trong nhiều kiếp hoặc kiếp nạn hiện kiếp của mỗi người khác nhau. Có
người đã đắc được phẩm vị Phật vị trong quá khứ nhưng vì vẫn chưa trải qua hết
các kiếp nạn và cải tạo được trụ linh thành bộ lọc năng lượng nên vẫn phải luân
hồi xuống để trải qua hết các kiếp nạn và tiếp tục phổ độ chúng sinh, khi thấy
trong quá khứ đã tạo nghiệp thì sẽ phải hành thiện cứu giúp người để gột rửa nghiệp
lực đó. Có người đã đắc phẩm vị Bồ tát trong các kiếp trước, vì chưa trải qua
hết các kiếp nạn, chưa cải tạo trụ linh thành bộ lọc năng lượng nên vẫn phải
luân hồi xuống nhân gian để trải qua hết các kiếp nạn, phải gột rửa nghiệp lực
trong các kiếp đã tạo, phải đi cứu độ chúng sinh. Có người thấy kiếp trước sát
sinh hay sát nhân, nghiệp lực nhiều thì kiếp này sẽ phải gột rửa các nghiệp lực
đó, tiếp tục trải qua các kiếp nạn để tu hành cải tạo trụ linh. Có người kiếp
trước tạo ra nhiều phước báo, kiếp này được thọ nhận thân tướng khỏe mạnh và
hưởng nhiều tiền tài địa vị trong cuộc sống, tiếp tục phải đón nhận và trải qua
các kiếp nạn để cải tạo trụ linh. Có người kiếp này bệnh tật trong người, nghèo
đói, bị đánh đập, khi thấy kiếp trước tạo nhiều nghiệp lực nên kiếp này phải
đối mặt và gột rửa nghiệp lực để tiếp tục cải tạo trụ linh.
Mỗi
người hiện hữu hiện kiếp sẽ đều phải có sứ mệnh chung giống nhau và sứ mệnh
riêng khác nhau. Nhưng vì tất cả nhân loại đều phải trải qua tất cả các kiếp
nạn khổ đau, sẽ có người trải qua trước, có người trải qua sau, dù trước hay
sau thì đều phải vượt qua hết và cải tạo được trụ linh thành bộ lọc năng lượng
cho tuệ linh mới hoàn thành sứ mệnh tu hành dưới nhân gian. Do đó hiện kiếp của
mỗi người sẽ có thân tướng khác nhau, thân tướng khác nhau là do căn nguyên
kiếp trước gieo duyên sinh khởi ra thiện phước hay gieo duyên sinh khởi ra pháp
ác, thân tướng khác nhau cũng do kiếp nạn mỗi kiếp khác nhau hay lặp lại kiếp
nạn trong nhiều kiếp mà vẫn chưa vượt qua. Hiện kiếp sẽ có những thân tướng ốm
yếu, có những thân tướng bệnh tật, có những thân tướng ác nhân, có những thân
tướng hiền lành từ bi, có những thân tướng đẹp đẽ, có những thân tướng giàu
sang về giả tướng, có những thân tướng có địa vị, có những thân tướng làm vua
chúa, có những thân tướng là nông dân… Dù thân tướng hiện kiếp như thế nào, dù
căn nguyên do thân tướng kiếp trước gieo duyên ra sao, khi thấu hiểu sứ mệnh
chung và sứ mệnh riêng thì tất cả các thân tướng là con người hiện tại không
nên phân biệt đối xử, không nên tự ti, không nên khinh khi hay ngạo mạn, tất cả
là bình đẳng bởi cội nguồn và sứ mệnh của nhân loại.
4.3.3.
Duyên ngoại duyên
Thông
qua việc gieo duyên tại hiện kiếp sẽ giúp ta nhìn thấy kết quả tương lai, nhìn
thấy được sau khi ta chết ta sẽ đi về đâu:
Khi
đã trả lời được câu hỏi ta là ai và sứ mệnh kiếp này rồi thì câu trả lời thứ 3
là chết xong ta đi về đâu phụ thuộc vào việc ta có hành động để hoàn thành sứ
mệnh hay không. Nếu ta trải qua được hết các kiếp nạn khổ đau và cải tạo được
trụ linh của tuệ linh thành bộ lọc năng lượng thì sẽ không còn luân hồi dưới
nhân gian nữa. Nếu ta vi phạm nhân quả và chưa vượt qua hết các kiếp nạn khổ
đau thì vẫn phải luân hồi trong nhiều kiếp. Nếu ta tạo được nhiều việc thiện
giúp đỡ nhân loại và chúng sinh thì kiếp sau sẽ được thọ hưởng nhiều phước báo.
Nếu ta tạo nhiều việc ác gây họa cho chúng sinh thì kiếp sau ta sẽ phải chịu
nhiều nghiệp báo. Do đó khi ta đã biết sứ mệnh của ta, việc ta gieo duyên để
sinh khởi nhiều hành động cải tạo thế giới quan sẽ giúp ta sớm vượt qua hết các
kiếp nạn khổ đau để cải tạo trụ linh của tuệ linh thành công. Nếu ta biết sứ
mệnh hay không biết mà cố tình hay vô tình gieo duyên dẫn đến sinh khởi hành
động tạo ác nghiệp thì sẽ phải chịu đọa đày và phải luân hồi trong vô lượng
kiếp chưa biết khi nào có thể cải tạo được trụ linh của tuệ linh thành bộ lọc
năng lượng.
Mỗi
duyên ta gieo dẫn đến hành động tại thời hiện tại sẽ sinh khởi ra phước báo hay
nghiệp báo vào thời tương lai, vào kiếp sau, đó là kết quả vào thời điểm vị
lai. Cũng như ta có 1 chiếc cốc thủy tinh, khi ta cầm chiếc cốc thủy tinh lên,
nếu ta dùng nó làm cốc đựng nước uống sẽ là có lợi ích, nhưng nếu ta ném cốc
thủy tinh vào ai đó sẽ gây tổn thương cho người đó và sẽ dẫn đến đánh nhau mà
tạo nghiệp. Khi ta giết người thì ta sẽ nhìn thấy được kết quả là pháp luật sẽ
xử ta tội tử hình và kiếp sau sẽ bị người khác giết hại lại. Nếu ta cứu giúp
người thì ta sẽ được nhiều người giúp đỡ và cứu giúp khi ta gặp hoạn nạn khó
khăn, và đời sau ta sẽ được giàu sang phú quý có nhiều người giúp đỡ.
Như
vậy thấu hiểu chân lý vạn vật trong hình tướng của vạn vật trong và ngoài vũ
trụ, trời và người sẽ giúp cho ta thấu hiểu được cội nguồn của nhân loại và vạn
vật. Ta thấy được sứ mệnh, thấy được hiện tại vì đó là kết quả của những duyên
đã gieo ra trong quá khứ, thấy được tương lai bởi các duyên đã và đang gieo ra
trong hiện tại. Khi hiểu được rằng ai cũng sẽ phải trải qua các thân tướng khác
nhau trong nhiều kiếp tu hành, bởi vì khi trải qua hết các thân tướng với các
kiếp nạn khổ đau khác nhau sẽ giúp cho chúng ta thấu hiểu chân lý vạn vật và
thông qua đó để cải tạo được trụ linh của tuệ linh thành bộ lọc năng lượng thì
con người không còn khinh khi, tự ti hay ngạo mạn về hình tướng của ta hay của
mọi người.
4.4. Chân lý giác ngộ
Chân
lý giác ngộ là: “À, đời là bể khổ. Chúng sinh trời người phải dùng chân tâm
đối mặt, giác ngộ giải thoát hết tất cả các khổ đau trong và ngoài vũ trụ, trời
và người”.
Dùng
chân lý giác ngộ trong Tướng là: “Mọi hình tướng là bể khổ, chúng sinh phải
dùng chân tâm đối mặt, giác ngộ giải thoát hết tất cả các khổ đau”.
Mọi
hình tướng đều khổ, mọi thân tướng của con người đều khổ, cái khổ là vì có sinh
và có diệt, thân tướng được sinh ra do duyên và hoại diệt đi cũng do duyên.
Mọi
thân tướng con người dù là bệnh tật hay khỏe mạnh, dù là giàu sang hay nghèo
khổ, dù là địa vị hay không địa vị, dù là ác nhân hay hiền lành, dù là vua chúa
hay nô bộc, tất cả đều khổ như nhau, tất cả đều bình đẳng tại cõi trần nhân
sinh này. Sự bình đẳng và sự khổ như nhau là vì trên con đường tu hành trong vô
lượng kiếp sẽ đều phải trải qua tất cả các thân tướng đó. Trải qua để thấu hiểu
nhân quả, thấu hiểu chân lý vạn vật. Khi thấu hiểu rồi thì thấy tất cả là khổ,
cái khổ của sự đối mặt với các kiếp nạn mà ta không biết trước, cái khổ của
sinh và tử, cái khổ của việc không nhận thấy thân tướng mình là khổ.
Khi
ta thấu hiểu chân lý vạn vật thì tức là ta đã giác ngộ. Tức là chỉ có dùng chân
tâm (sự từ bi, hỉ, xả) để đối mặt với tất cả các hình tướng. Đối mặt với thân
tướng của những con người khác nhau, thân tướng của muông thú và vạn vật. Ta
đối mặt để ta cảm thông, sẻ chia, coi các thân tướng đó cũng là thân tướng của ta,
và coi thân tướng của ta cũng là các thân tướng đó. Sự cảm thông, sẻ chia, đặt
thân tướng của ta là họ, của họ là ta sẽ giúp cho ta và mọi người cùng trân
trọng tất cả các thân tướng của nhau, của muôn loài, của vạn vật vũ trụ và trời
người. Và rồi cùng nhau đoàn kết, cùng nhau yêu thương, cùng nhau vượt qua tất
cả các kiếp nạn mà không có sự đố kị, sự khinh khi, sự tự ti, sự ngạo mạn an
trụ trong thân tướng ta. Khi ta thấy 1 người đang giết hại 1 con bò, ta hãy đặt
thân tướng ta là thân tướng của người đang giết con bò thì ta sẽ cảm thấy sự
ghê sợ và sự sợ hãi của việc giết đi một sinh mạng; sự sợ hãi và ám ảnh đó sẽ
giúp ta không làm việc giết hại muông thú và con người; khi ta đặt thân tướng
ta là con bò đang bị giết, cảm nhận sự kêu khóc và giãy giụa của con bò trước
cái chết để ta trân trọng cuộc sống và thương yêu muôn loài. Khi ta đặt thân
tướng ta là thân tướng của người bị bệnh hiểm nghèo đang đối mặt với cái chết,
khi đó ta sẽ cảm thấy sự bất lực của bệnh tật trong thân tướng ta, nó làm cho
ta mất đi chí khí, mất đi sức mạnh, làm cho ta khao khát được sống, khi đó ta
cảm thọ được những đau khổ đó để rồi ta trân trọng cuộc sống, giúp đỡ nhiều
người có thân tướng bệnh tật khổ đau. Khi ta đặt thân tướng ta là thân tướng
của vua chúa, ta sẽ thấy nỗi khổ đau của bậc đế vương, ta sẽ thấy áp lực, trọng
trách bảo vệ tổ quốc, nỗi khổ phải xử lý những người tạo phản, những người tham
ô tham nhũng bán nước hại dân, phải đấu tranh với nhiều thế lực phản động mưu
hại quốc gia, khi đó ta sẽ thấy ta phải có trách nhiệm cùng toàn dân để góp
phần bảo vệ tổ quốc. Khi ta đặt thân tướng của ta vào thân tướng của người ăn
chơi nghiện ngập, ta sẽ cảm thọ được sự u mê trong khoái lạc bay bổng của ảo
giác, ta sẽ không kỳ thị và xa lánh họ, sẽ giúp đỡ họ vượt qua nỗi khổ đó. Cứ
như vậy, khi ta biến thân tướng của tất cả muông thú, của vạn vật, thân tướng
của tất cả con người đang hiện hữu thành thân tướng của ta để cảm thọ, thấu
hiểu các nỗi khổ, thấu hiểu các nghiệp lực để ta có được sự yêu thương và cùng
nhau đoàn kết giúp đỡ nhau vượt qua các kiếp nạn khổ đau. Thế giới sẽ ngày càng
an lạc và hạnh phúc, con đường cải tạo trụ linh của tuệ linh sẽ sớm thành công,
giá trị đạo đức nhân văn sẽ được xây dựng vững chắc.
Bài
Tướng vô Tướng là giúp cho chúng ta thấu hiểu được bản chất, cội nguồn của hình
tướng khắp vũ trụ, thấu hiểu được cội nguồn của con người, thấu hiểu được chân
lý vạn vật trong hình tướng và dùng chân lý giác ngộ để giác ngộ giải thoát hết
các khổ đau của hình tướng bằng tâm từ bi, tâm an vui và tâm buông xả tất cả
các chấp ngã để gắn kết những vết thương của vạn vật trời người.
Bài
Tướng giúp cho chúng ta thấy thân tướng của chúng ta là sự cấu hợp thành của
tam hợp, thân tướng đã là ô uế của máu tanh, của lục phủ ngũ tạng. Do đó không
nên nghiên cứu kỹ và chi tiết vào các căn, vào mắt, tai, mũi, miệng, xúc giác
mà chậm trễ trong việc nhàm thân tướng để có thời gian hành đạo cải tạo trụ
linh của tuệ linh. Thấu hiểu bài tướng này chính là giúp cho nhân loại, con
người có những bước đi nhanh trên con đường giác ngộ viên mãn.