Bài Nguyện
Bài Nguyện này cũng được hiểu là Nguyện Vô
Nguyện.
Chữ
Nguyện đầu tiên là khái niệm và bản chất của nguyện, chữ Vô là chân lý vạn vật
của nguyện, chữ Nguyện cuối cùng là chân lý giác ngộ của nguyện.
1.1. Khái niệm về Nguyện
“Nguyện
là sự tự phát và thực hiện được từ một cho đến nhiều mong muốn mà không chịu
bất kỳ sự ép buộc nào”.
Nguyện
chính là những mong muốn thực hiện được và phải là sự tự phát ra từ chính chỉnh
thể của sự sống chứ không chịu bất kỳ sự ép buộc hay bị bắt buộc từ chỉnh thể
sự sống khác. Thậm chí nguyện không chịu sự chi phối từ những yếu tố chủ quan
của những chỉnh thể sống khác. Ví dụ: con người không thể dùng ý chí chủ quan
của mình mà phán hay gắn việc những ai thành phật sẽ không còn hoá thân xuống nhân
gian; con người không thể dùng ý chí chủ quan của mình mà phán hay gắn việc
những người giàu có không được làm từ thiện cứu người bằng tiền của họ.
Nguyện
có từ một cho đến vô số các mong muốn muốn thực hiện được.
1.2. Bản chất của Nguyện
Khi
nói đến nguyện là ta phải hiểu được cội nguồn sự hình thành, phát triển của vũ
trụ, cội nguồn của dạng sống tuệ linh, cội nguồn của nhân loại. Cội nguồn của
nhân loại chính là các tuệ linh của dạng sống tuệ linh ở cõi trời nhiệm màu
nhất vũ trụ, phát nguyện xuống trái đất tạo ra dạng sống của nhân loại để tu
hành. Do đó nguyện sẽ được chia ra làm đại nguyện của các tuệ linh và tâm
nguyện của chân tu (con người).
1.2.1.
Đại nguyện của tuệ linh
Nói
đến đại nguyện là nói đến nguyện lực của các tuệ linh của dạng sống tuệ linh
trong vũ trụ. Khi các tuệ linh phát nguyện để thực hiện nhiệm vụ hay sứ mệnh gì
đó sẽ được tuệ linh khắp các cõi trời khác biết và ghi nhận nguyện lực đó. Đặc
biệt tất cả các nguyện của tuệ linh sẽ được hội đồng biên bản luật của cõi trời
của vị Tuệ linh đầu tiên (người cha vĩ đại của vũ trụ trời người) ghi lại để
làm căn cứ chứng minh nên gọi là đại nguyện.
Những
đại nguyện khi phát ra của các tuệ linh sẽ phải được người cha vĩ đại thông
qua, những đại nguyện đó phải đảm bảo nguyên tắc không đi ngược dòng chảy của
quy luật tự nhiên, không vi phạm luật nhân quả. Đặc biệt những đại nguyện phát
ra phải tuân thủ luật phẩm vị quả vị đã đạt được của các tuệ linh:
-
Các tuệ linh cõi trời của người cha vĩ đại và tuệ linh ở khắp các
cõi trời khác mà phát nguyện với người cha vĩ đại để xuống nhân gian tu hành,
thì những lời phát nguyện chính là luật để làm căn cứ khi nào họ thực hiện xong
thì mới là hoàn thành đại nguyện. Họ phải tu hành trong vô số kiếp cho đến khi
hoàn thành con đường tu hành cải tạo được trụ linh thành bộ lọc năng lượng cho
tuệ linh. Không được vi phạm luật nhân quả, nếu vi phạm thì sẽ phải luân hồi
trong vòng sinh tử dưới nhân gian để gột hết nghiệp lực đã tạo ra. Khi có tuệ
linh phát đại nguyện với người cha vĩ đại là xuống nhân gian dẫn dắt chúng sinh
tu hành, luật đại nguyện của tuệ linh này sẽ là phải trải qua hết các kiếp nạn
khổ đau để cải tạo được bộ lọc năng lượng trước, và sau đó tiếp tục phải dẫn
dắt, truyền dạy cho những người khác tu hành theo đạt được bộ lọc năng lượng,
nếu không làm được thì đại nguyện chưa hoàn thành, sẽ phải tiếp tục xuống nhân
gian để hoàn thành đại nguyện.
-
Các tuệ linh ở các hội đồng nghiên cứu của cõi trời người cha vĩ
đại mà nghiên cứu được các công trình, các phương pháp để xây dựng nhân loại,
thúc đẩy nhân loại phát triển, họ phải phát nguyện với ngài xuống nhân gian để
lan tỏa công trình đó, các phương pháp đó cho nhân loại. Họ sẽ phải tuân thủ
theo luật nhân quả và luật phát nguyện là xuống nhân gian phải đưa được công
trình hay phương pháp đó lan tỏa cho nhân loại, nếu thực hiện thành công ở 1
kiếp thì sẽ được trở về mà không phải xuống, nếu chưa thành công trong 1 kiếp
thì phải tiếp tục luân hồi để thực hiện thành công. Những trường hợp các tuệ
linh ở các hội đồng nghiên cứu trên cõi trời của người cha vĩ đại khi phát
nguyện xuống nhân gian để lan tỏa các công trình nghiên cứu, các phương pháp
xây dựng nhân loại, họ sẽ được gieo duyên đặc biệt để nhanh chóng hoàn thành trong
một kiếp để được trở về.
-
Các tuệ linh đã đắc phẩm vị Thánh nhân, khi thấy dân chúng của
quốc gia dưới nhân gian mà mình đã có công xây dựng bảo vệ quốc gia đó đang
trong cảnh khổ đau bởi chiến tranh hay nghèo khó. Họ sẽ phát nguyện với vua
trời và người cha vĩ đại để xuống cứu giúp dân chúng quốc gia đó vượt qua chiến
tranh để có được hòa bình hoặc thoát hoàn cảnh nghèo khó. Khi họ xuống, họ phải
tuân thủ theo luật nhân quả và phải tuân thủ theo luật đại nguyện là thực hiện
được nhiệm vụ đó. Khi họ hoàn thành xong đại nguyện đó thì họ vẫn phải tuân thủ
hành trình tu hành trong nhiều kiếp cho đến khi đạt được bộ lọc năng lượng thì
mới không phải luân hồi.
-
Các tuệ linh đã đắc phẩm vị Bồ tát, khi phát nguyện với người cha
vĩ đại để xuống nhân gian cứu độ chúng sinh thì họ sẽ phải tuân thủ luật nhân
quả và luật quả vị. Đó là họ sẽ phải làm tròn nhiệm vụ cứu độ dân tộc của quốc
gia mà họ hóa thân xuống và phải cứu độ dân chúng khắp nơi trên thế giới trong
sự không phân biệt. Họ vẫn phải tiếp tục hành trình tu hành trong nhiều kiếp
cho đến khi đạt được bộ lọc năng lượng.
-
Các tuệ linh đã đắc phẩm vị Phật, khi phát nguyện xuống nhân gian
thì họ phải tuân thủ luật nhân quả và luật quả vị. Họ phải phải làm được nhiệm
vụ cứu độ cho dân tộc họ được sinh ra, phải cứu độ được dân chúng khắp nơi trên
thế giới, phải thuyết pháp về hai chân lý cho chúng sinh trời người trong sự
không phân biệt. Nếu họ chưa đạt được bộ lọc năng lượng thì sẽ phải tiếp tục
hành trình tu hành trong nhiều kiếp để đạt được bộ lọc.
-
Khi Quả Không (tuệ linh đã đắc được bộ lọc năng lượng trong trụ
linh) phát nguyện xuống nhân gian để Hóa độ chúng sinh, thì phải tuân thủ theo
luật đại nguyện và luật nhân quả. Có thể Đức Phật Thích Ca phát nguyện xuống để
dẫn dắt chúng sinh đi theo chân lý vạn vật và chân lý giác ngộ, dẫn dắt chúng
sinh cải tạo được bộ lọc năng lượng trong trụ linh như ngài đã đạt được. Khi
hóa thân xuống nhân gian thì ngài sẽ phải làm được nhiệm vụ của đại nguyện là
cứu độ của hàng thánh nhân, cứu độ của hàng bồ tát, phổ độ được của hàng phật
và ngài phải dẫn dắt ít nhất 1 cho đến nhiều chúng sinh thực hành cải tạo được
bộ lọc năng lượng trong trụ linh của tuệ linh; ngài không được phép vi phạm
luật nhân quả. Nếu ngài không hoàn thành nhiệm vụ truyền dạy giáo lý thực hành
cải tạo trụ linh thành công thì ngài sẽ phải tiếp tục xuống nhân gian để truyền
dạy. Hoặc nếu ngài vi phạm luật nhân quả thì ngài sẽ phải xuống tiếp nhân gian
để gột rửa nghiệp lực đã tạo ra.
-
Các tuệ linh đạt được phẩm vị cao từ hàng Thánh nhân cho đến Quả
Không, khi phát nguyện với người cha vĩ đại của vũ trụ trời người, để được ngài
tạo lập sự sống ở một hay nhiều cõi trời, để về an trụ hay quản lý cõi trời đó
nhằm giáo hóa chúng sinh trời người ở cõi đó và dưới nhân gian. Khi đó các tuệ linh
có phẩm vị mà không hoàn thành đúng nhiệm vụ sẽ bị phế truất phẩm vị, hoặc khi
tiếp tục xuống nhân gian tu hành nhưng vi phạm luật nhân quả của quả vị thì
cũng bị phế truất phẩm vị và tuệ linh khác sẽ thay thế đảm nhiệm nhiệm vụ.
Như
vậy trong luật đại nguyện phải đảm tuân thủ nguyên tắc như sau: phải tu hành
dưới nhân gian cho đến khi đạt được bộ lọc năng lượng trong trụ linh của tuệ
linh, có thể thời gian luân hồi sẽ dài ngắn khác nhau; phải tuân thủ luật nhân
quả, nếu vi phạm vào sẽ phải đọa trong luân hồi cho đến khi gột rửa được nghiệp
lực mới thôi; phải tuân thủ và thực hiện thành công nguyện lực đã phát, nếu
không thành công thì phải tiếp tục xuống để hoàn thành nguyện lực. Tất cả đại
nguyện của các tuệ linh được hội đồng biên bản luật của cõi trời của người cha
vĩ đại ghi chép để làm căn cứ và hợp nhất với luật nhân quả. Như thế luật nhân
quả sẽ thay đổi theo phẩm vị quả vị đã đạt được: luật nhân quả của tuệ linh
chưa đắc được phẩm vị gì thì chỉ dừng lại ở không vi phạm 4 biểu hiện hình
tướng đạo; tuệ linh hàng Phật không những không được vi phạm 4 biểu hiện hình
tướng đạo mà không được vi phạm việc không cứu độ và phổ độ chúng sinh, cũng
như vị phật nào đó hóa thân xuống nhân gian mà không phổ độ, cứu độ chúng sinh,
mặc dù không vi phạm 4 biểu hiện hình tướng đạo, thì vị phật đó sẽ bị mất quả
vị vì vi phạm luật nhân quả trong quả vị; cũng như quả vị bồ tát xuống nhân
gian, dù không vi phạm 4 biểu hiện hình tướng đạo, nhưng lại không cứu độ chúng
sinh, do đó cũng bị mất quả vị.
1.2.2.
Tâm nguyện của chân tu
Tâm nguyện là do chân tu
của các tuệ linh hay cũng là tâm nguyện của con người khi họ muốn thực hiện
được điều gì đó, và từ tâm họ phát ra nguyện lực thì được gọi là tâm nguyện.
Đặc biệt tất cả các tâm nguyện của con người đều được hội đồng biên bản luật
của cõi trời của người cha vĩ đại ghi lại để làm căn cứ chứng minh.
Những tâm nguyện khi phát
ra của con người phải đảm bảo nguyên tắc không đi ngược dòng chảy của quy luật
tự nhiên, không vi phạm luật nhân quả. Đặc biệt, những tâm nguyện phát ra phải
tuân thủ luật đại nguyện của tuệ linh, đó là phải phát tâm nguyện bằng hoặc lớn
hơn đại nguyện mà tuệ linh đã phát ra. Cụ thể :
- Các
hóa thân của các tuệ linh các cõi trời phát đại nguyện xuống nhân gian tu hành
thì chân tu sẽ phải phát tâm nguyện là vượt qua hết tất cả các khổ đau kiếp nạn
để cải tạo được trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Chân tu của tuệ linh phát đại
nguyện xuống dẫn dắt chúng sinh tu hành thì sẽ phải phát tâm nguyện là công tâm
truyền dạy giáo lý giác ngộ cho chúng sinh.
- Các
hóa thân của các tuệ linh tại cõi trời của người cha vĩ đại phát nguyện xuống
nhân gian để lan tỏa công trình nghiên cứu hay các phương pháp xây dựng nhân
loại thì chân tu phải phát tâm nguyện là lan tỏa được công trình hay phương
pháp đó cho nhân loại.
- Các
hóa thân của các bậc Thánh nhân thì phải phát tâm nguyện hi sinh thân xác và
lợi ích riêng để cứu độ dân tộc quốc gia mình sinh sống.
- Các
hóa thân của các vị Bồ tát thì phải phát tâm nguyện hi sinh lợi ích và thân xác
để cứu độ được dân tộc quốc gia mình sinh ra và cứu độ cả dân chúng khắp thế
giới, cứu độ tất cả chúng sinh trời người trong sự không phân biệt.
- Các
hóa thân của các vị Phật phải phát tâm nguyện là hi sinh thân xác và lợi ích
riêng để hoàn thành cứu độ dân tộc, cứu độ của bồ tát và thuyết pháp hai chân
lý khắp thế gian và trời người.
- Hóa
thân của Quả Không thì phải phát tâm nguyện là công tâm dẫn dắt chúng sinh thực
hành cải tạo được bộ lọc năng lượng trong trụ linh của tuệ linh, đồng thời phải
cứu độ của hàng Thánh nhân, cứu độ của hàng Bồ tát và thuyết pháp của hàng
Phật.
Như vậy tâm nguyện của
chân tu phải hợp nhất hoặc sau hợp nhất thì phải phát nguyện lớn hơn chứ không
được phát nguyện ít hơn đại nguyện của tuệ linh. Nếu chân tu không phát tâm
nguyện và hoàn thành tâm nguyện thì tuệ linh sẽ bị mất phẩm vị quả vị và phải
đọa trong sinh tử luân hồi.
Để các chân tu biết được
sứ mệnh cũng như nhiệm vụ mà phát tâm nguyện thực hiện đại nguyện cho tuệ linh
thì các tuệ linh của mỗi chân tu phải có trách nhiệm thông báo cho chân tu biết
trong giấc mơ hoặc trong tâm có sự thôi thúc. Để phân biệt được là tuệ linh báo
thì các tuệ linh sẽ báo nhiều lần trong giấc mơ. Tuy nhiên Ma vương vẫn xâm
nhập vào giấc mơ để xui khiến chân tu đi ngược dòng chảy của quy luật tự nhiên,
do đó để nhận biết là tuệ linh báo thì lời báo đó không được đi ngược dòng chảy
quy luật tự nhiên. Thông qua hành thiền đúng phương pháp thì các chân tu cũng
được báo sứ mệnh của tuệ linh và lời báo phải không đi ngược dòng chảy của quy
luật tự nhiên. Đặc biệt, thông qua giáo lý Bát Không Chân Kinh thì chúng sinh
sẽ biết được mình là ai, mình từ đâu đến, sứ mệnh của mình là gì, chết đi mình
về đâu, và việc còn lại là chúng sinh hành động thực hiện tâm nguyện sau khi
phát. Tức là sứ mệnh lớn nhất, đại nguyện lớn nhất của tất cả các tuệ linh
chính là cải tạo trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn, đó là tu luyện đắc
quả vị Quả Không. Do đó chúng ta cũng không cần tìm hiểu chi tiết tuệ linh phát
những nguyện nhỏ hay chi tiết ra sao, chúng ta chỉ cần tập trung phát tâm
nguyện và hoàn thành đại nguyện cải tạo trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên
mãn.
1.3.
Chân lý vạn vật – Vô (Duyên)
Chân lý vạn vật là:“Vạn
vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài vũ trụ không tự sinh ra, không tự mất
đi, khổ đau không tự đến, khổ đau không tự đi, tất cả do duyên nghiệp hay còn
gọi là nhân quả”.
Như vậy, ứng dụng chân lý
vạn vật trong Nguyện sẽ là: “Nguyện không tự sinh ra, không tự mất đi, khổ đau
không tự đến và không tự đi, tất cả do duyên nghiệp hay còn gọi là nhân quả”.
Chân lý vạn vật chính là
luật nhân quả, chính là chữ Vô, Vô là tướng không, vì nó không bất tử, vì nó
không vĩnh cửu, vì nó không trường tồn, nó chỉ tồn tại trong khoảng thời gian
nhất định rồi lại chuyển hóa sang tướng khác do duyên. Do đó chân lý vạn vật,
luật nhân quả được đúc kết thành chữ duyên, duyên chính là tướng không, không
có cái gì là của ta, thân xác ta cũng không phải của ta, mọi giả tướng không
của ta, không của ai đó và bản thân giả tướng cũng không phải của chính nó.
Thấu hiểu chữ duyên thì ta sẽ thấu hiểu được căn nguyên do đâu mà sinh khởi
thành nguyện và do đâu mà nguyện hoại diệt. Bởi nguyện do duyên sinh, nguyện do
duyên diệt.
1.3.1.
Nguyện do duyên sinh
Dù là đại nguyện hay tâm
nguyện thì đều do trí tuệ thấu hiểu được quá trình duyên hợp của các hình
tướng, thấu hiểu dòng chảy quy luật tự nhiên, thấu hiểu nhân quả, thấu hiểu
chân lý vạn vật mà phát nguyện lực để thực hành cải tạo thế giới quan tốt đẹp
hơn.
Vị Tuệ linh đầu tiên vì
quan sát thấy nhiều tuệ linh hoại diệt do năng lượng hoại diệt xâm nhập mà đồng
hóa, thấy nguy cơ hoại diệt của vũ trụ nên ngài đã dùng trí tuệ đặc biệt để
phát đại nguyện lực duy trì phát triển sự sống khắp vũ trụ. Để thực hiện được
đại nguyện lực của ngài thì ngài lại có vô số nguyện lực nhỏ hay còn gọi là các
kế hoạch xây dựng và phát triển sự sống khắp vũ trụ và giúp dạng sống tuệ linh
luyện được bộ lọc năng lượng viên mãn.
Các tuệ linh khi quan sát
và đối mặt với sự hoại diệt của chính mình và vũ trụ, nên đã dùng trí tuệ để
phát nguyện lực xuống nhân gian tu hành cải tạo trụ linh của tuệ linh thành bộ
lọc năng lượng bất tử, để có khả năng duy trì và phát triển sự sống của vũ trụ.
Đức Phật Thích Ca thấy trời
người mê lầm lạc lối, khổ đau vì đối mặt với sự hoại diệt của tất cả các dạng
sống trong và ngoài vũ trụ, nên ngài đã phát đại nguyện lực để tìm ra con đường
đạo dẫn dắt chúng sinh trời người hoàn thành các nguyện lực.
Có người giàu có, họ thấy
nhiều người nghèo đói do thiên tai, dịch bệnh, họ phát nguyện lực mang tiền của
giúp đỡ dân chúng nơi dịch bệnh, thiên tai vượt qua khó khăn. Có người thấy
chúng sinh mê lầm trong mê tín dị đoan, họ phát nguyện lực lan tỏa sự thật để
diệt mê khai ngộ cho chúng sinh. Có người có sức khỏe, họ phát nguyện lực đi
cứu giúp những người yếu đuối. Có người họ có địa vị, họ phát nguyện giúp đỡ
nhân tài lên điều hành đất nước. Có người vì tình thương yêu trẻ thơ bị bỏ rơi,
họ phát nguyện lực nhận nuôi các cháu...
1.3.2.
Nguyện do duyên diệt
Dù là đại nguyện hay tâm
nguyện sẽ đều hoại diệt do duyên, thời gian thực hiện từ lúc sinh khởi cho đến
khi hoại diệt là khác nhau, nhưng nguyện hoại diệt là do các căn nguyên sau:
-
Nguyện hoại diệt do tuệ linh và chân tu đã hoàn thành thành công nguyện
lực đó.
-
Nguyện hoại diệt do chân tu không thực hiện hoặc hủy bỏ giữa chừng khi
đang thực hiện.
- Nguyện
hoại diệt là do tuệ linh và chân tu bị hoại diệt khi chưa hoàn thành xong
nguyện lực, trong trường hợp này là tuệ linh đã bị hoại diệt hoàn toàn, tức là
đã bị năng lượng hoại diệt đồng hóa hoàn toàn hoặc bị năng lượng hoại diệt kích
nổ mà hoại diệt.
Như vậy nguyện do duyên
sinh, nguyện do duyên diệt, nó không bất tử. Do đó khi hiểu chân lý vạn vật
trong nguyện thì chúng sinh trời người luôn luôn sinh khởi nguyện lực để thực
hành cải tạo và duy trì phát triển sự sống khắp vũ trụ ngày càng tốt đẹp hơn.
1.4.
Chân lý giác ngộ
Chân lý giác ngộ
là :“À, đời là bể khổ. Chúng sinh trời người phải dùng chân tâm đối
mặt, giác ngộ giải thoát hết tất cả các khổ đau trong và ngoài vũ trụ, trời và
người”.
Dùng chân lý giác ngộ
trong Nguyện là: “Nguyện là bể khổ. Chúng sinh phải phải dùng chân tâm đối mặt,
giác ngộ giải thoát hết tất cả các khổ đau”. Nguyện ở đây chính là đại nguyện
của tuệ linh và tâm nguyện của chân tu, tất cả đều là khổ đau.
Đại nguyện của tuệ linh
là bể khổ: khổ của tuệ linh khắp các cõi trời là sự đối mặt không biết có thực
hiện được đại nguyện hay không, cái khổ của sự thực hiện dang dở mà hoại diệt
tuệ linh , cái khổ của sự không hoàn thành đại nguyện ; cái khổ của
sự hoàn thành, cái khổ của hoàn thành cải tạo bộ lọc năng lượng thành công rồi
lại chuyển hóa thành cái khổ của sự sinh khởi phát nguyện đại nguyện dẫn dắt
các tuệ linh và chúng sinh thực hành cải tạo được bộ lọc năng lượng. Cái khổ
của tuệ linh chỉ hết khi tuệ linh đạt được bộ lọc năng lượng và dùng tình yêu
thương bao la để giúp đỡ các tuệ linh trời người khác đạt được hoàn đạo viên
mãn.
Tâm nguyện của chân tu là
bể khổ: cái khổ của tâm nguyện là không biết đại nguyện của tuệ linh mà phát
tâm nguyện, cái khổ của trí tuệ con người định vào giả tướng và thân tướng của
chính mình mà thấy mình không thực hiện được, cái khổ của u mê nhiều đời nhiều
kiếp làm cho chân tu không có sức mạnh để quyết tâm phát tâm nguyện, cái khổ
của sự sợ hãi không hoàn thành tâm nguyện, cái khổ của sự bí bách khi tâm
nguyện dang dở. Cái khổ của tâm nguyện chỉ hoại diệt khi hoàn thành và chuyển
hóa nó thành lợi ích an vui cho chúng sinh.
Như vậy nguyện là khổ,
chúng sinh chỉ có dùng chân tâm đối mặt, đón nhận đại nguyện và hoàn thánh hết
các đại nguyện của tuệ linh, hoàn thành được quá trình tu hành cải tạo tuệ linh
có được bộ lọc năng lượng viên mãn.
1.5.
Đại nguyện lực của Đấng tạo hóa (vị Tuệ linh đầu tiên)
Đấng tạo hóa chính là
người cha vĩ đại của vũ trụ và trời người, ngài là vạn vật, vạn vật chính là
ngài, ngài là nhân quả, nhân quả chính là ngài, ngài chính là hình tướng đạo,
hình tướng đạo chính là ngài. Ngài chỉ có duy nhất một đại nguyện lực, đó là “Thông
qua chân lý vạn vật (cơ chế phân tách, liên kết dây) để duy trì sự tồn tại và
phát triển tất cả các dạng sống trong và ngoài vũ trụ”. Đó là đại nguyện lực
xây dựng hình tướng đạo để duy trì sự tồn tại và phát triển tất cả các dạng
sống trong và ngoài vũ trụ. Để thực hiện được đại nguyện lực này thì ngài thực
hiện vô số kế hoạch, đó chính là các nguyện nhỏ để tạo ra môi trường tu hành,
gieo duyên dẫn dắt các tuệ linh khắp các cõi trời người luyện được bộ lọc năng
lượng để duy trì và phát triển sự sống khắp vũ trụ. Đại nguyện lực của ngài
chính là vô số nguyện lực và cũng là không có nguyện lực nào nếu ta đã thấu
hiểu tướng không của nguyện trong chân lý vạn vật. Như vậy đại nguyện lực của
ngài vẫn đang trong quá trình thực hiện, vẫn chưa hoàn thành và chưa kết thúc,
do đó ngài vẫn gieo vô số duyên để đại nguyện lực của ngài từng bước hoàn
thành.
1.6.
Đại nguyện lực của Nhật Sư Hoàn Đạo
Đại nguyện lực của Nhật
Sư Hoàn Đạo từ khi bắt đầu hóa thân xuống nhân gian từ thời đầu tiên mà các tuệ
linh phát nguyện xuống tu hành là “Dẫn dắt chúng sinh trời người tu hành tuân
thủ hình tướng đạo của Đấng tạo hóa mà đắc được bộ lọc năng lượng để duy trì sự
tồn tại, phát triển tất cả các dạng sống trong và ngoài vũ trụ trời người”. Cho
đến khi tuệ linh của tôi đắc quả vị Quả Không, tuệ linh vẫn tiếp tục thực hiện
đại nguyện lực duy nhất của ngài là dẫn dắt chúng sinh đắc được quả vị không để
có được bộ lọc năng lượng duy trì phát triển tất cả các dạng sống trong và
ngoài vũ trụ, đó là đại nguyện lực truyền dạy tâm đạo. Đại nguyện lực của tuệ
linh vẫn đang được thực hiện, nó chưa kết thúc và chưa hoàn thành. Đó là đại
nguyện lực của người Thầy, tuy là duy nhất nhưng lại là vô số nguyện lực và
cũng là không có nguyện lực khi thấu hiểu chân lý vạn vật. Tuệ linh luôn luôn
gieo vô số duyên bằng chân tâm để chúng sinh thấu hiểu được chân lý vạn vật và
giác ngộ được chân lý giác ngộ của vạn vật trong và ngoài vũ trụ, để tu hành
hoàn đạo viên mãn.
Thông
qua bài Nguyện, chúng ta và nhân loại sẽ hiểu được việc chúng ta có mặt nơi nhân
gian này là để thực hiện đại sứ mệnh cao cả, đó là đại nguyện lực cao cả nhất
vũ trụ trời người. Do nguyện lực của dạng sống tuệ linh trong vũ trụ mà có nhân
loại, do nguyện lực đó mà có sự hiện hữu của ta nơi nhân gian này, do đó chúng
ta phải xây dựng được hệ tư tưởng vững chắc để hoàn thành đại nguyện của tuệ
linh. Hoàn thành đại nguyện của tuệ linh chính là xây dựng được bộ lọc năng
lượng viên mãn trong trụ linh để duy trì, phát triển sự sống của tất cả các
dạng sống trong và ngoài vũ trụ. Đó chính là ý nghĩa của cuộc sống, ý nghĩa của
cuộc sống chính là đem lại sự an vui, hạnh phúc, sự bền vững của cấu trúc mã
sóng trí tuệ cho tất cả các dạng sống trong và ngoài vũ trụ.