Trang chủ
 
Thành viên
 
Thống kê
 
Nội quy
 
 
 
 
THÀNH VIÊN
ĐĂNG KÝ THÀNH VIÊN
THÔNG TIN TIỆN ÍCH
Xem tử vi trọn đời
Xem Quái số của bạn
Xem cung tuổi vợ chồng
Lịch vạn niên 2024
Đổi ngày dương ra âm
Tra cứu sao chiếu mệnh
Cân xương tính số
Xem hướng nhà
Xem Sim số đẹp
HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN
Hôm nay: 297
Tất cả: 15,012,663
 
 
TỨ TRỤ-BÁT TỰ
1. Đăng ký xem Tứ Trụ (Tính phí)
2. Hỏi, xem, trao đổi về Tứ Trụ (Miễn phí)
3. Lý Thuyết Chung về Tử Trụ - Tử Bình - Bát Tự
4. Tử Bình Manh Phái
5. Lý thuyết Thập Thần trong Tứ Trụ
6. Cách cục Mệnh lý trong Tứ Trụ
7. Luận đoán về Bố - Mẹ trong Tứ Trụ
8. Luận đoán về Vợ - Chồng trong Tứ Trụ
9. Luận đoán về Huynh Đệ trong Tứ Trụ
10. Luận đoán về Con Cái trong Tứ Trụ
11. Luận đoán về Kinh Tế trong Tứ Trụ
12. Luận đoán về Công Việc - Nghề Nghiệp trong Tứ Trụ
13. Luận đoán về Điền Sản trong Tứ Trụ
14. Luận đoán về Đi xa - Xuất ngoại trong Tứ Trụ
15. Luận đoán về Bệnh tật - Thọ yểu trong Tứ Trụ
Nội dung tin đăng Trả lời bài này
Tử Bình Tạp Lục. Bát Tự Cửu Cung Phi Tinh Quyết.

Tử Bình Tạp Lục. 

Bài 1: Khâu Bình Sách - Bát Tự Cửu Cung Phi Tinh Quyết

Link: https://m.wendangwang.com/doc/3969c2ebdd7f5ea117553f89

(Người dịch: Trần Thiên Khánh)


Điểm tốt:
(1) Đề cao "cung tinh đồng tham"
(2) Đề cao cung vị
(3) Có đề cập đến bản cung, tha cung, lạc vị, nội cung, ngoại cung

Điểm chưa tốt:
(1) Đóng gọi lại kĩ thuật cung - tinh, vốn là một kĩ thuật cơ bản của Tử Bình, gọi bằng mỹ danh "cung tinh đồng tham"
(2) Đề cập không đủ các trường hợp của "cung tinh đồng tham"
(3) Từ (2): nghi án giấu nghề để bán sách hoặc không biết thật sự
(4) Đánh đồng "nội cung, ngoại cung" với "cung tinh đồng tham". Nội cung, ngoại cung là tượng thuộc hệ thống "tiểu thời không định vị", không thuộc "cung tinh đồng tham". Tuy nhiên, có thể kết hợp "tiểu thời không định vị" với "cung tinh đồng tham" để đoán số.

Thiên Khánh chú: Vui lòng tự gạn đục khơi trong.


(Dịch thô)

Bát tự cửu cung phi tinh quyết, cũng là khẩu quyết bát tự luận đoán sắc nét về cát hung lục thân, càng là bí quyết mệnh lý dân gian có thể giải quyết một trong những vấn đề trọng đại là làm sao luận đoán lục thân nếu không xuất hiện trong mệnh cục.

Lời dẫn: Từ năm 2003, sau khi Tân Phái lần đầu công khai giới thiệu “Bách Thần Luận”, giới mệnh lý “loạn tượng” bắt đầu hiện, về sau còn có các trường phái Manh Phái, phủ định truyền thống, manh luận bát tự, dẫn đến mệnh lý giới đầy rẫy nguỵ pháp, “loạn tượng” từ đó mà sinh ra. Hồ ngôn loạn ngữ luận bách thần, loạn biến lục thân, trong giới mệnh lý thường thường xảy ra. Về nguỵ pháp “loạn biến lục thân”, không chỉ có làm lẫn lộn tôn chỉ mệnh lý “lấy nhật làm chủ”, qua đó mà an định lục thân, vốn được Tử Bình Tổ Sư cách tân từ thời Tống, càng làm cho hậu học hoa mắt loạn thần, không biết lối ra. Càng có rất nhiều phái mệnh lý tại trong loạn tượng thừa nước đục thả câu, mệnh lý giang hồ càng thêm hiểm ác, chỉ trích nhau nổi lên bốn phía, tạp gia hoành hành. Vì bình hỗn loạn, lập lại trật tự, Khâu Bình Sách tiên sinh, người sáng tạo ra Bình Phái Mệnh Lý, đem Cửu Cung Phi Tinh Quyết của Bình Phái vô tư công khai, để trợ chúng duyên.

Bình Phái “Bát tự Cửu Cung Phi Tinh Quyết” là khấu quyết bát tự trọng yếu để luận đoán cát sắc nét cát hung lục thân, càng là bí quyết mệnh lý dân gian có thể giải quyết một trong những vấn đề trọng đại là làm sao luận đoán lục thân nếu không xuất hiện trong mệnh cục. Việc công khai Bình Phái “Cửu Cung Phi Tinh Quyết”, không phải chỉ là lần đầu giới thiệu khái niệm “nội cung, ngoại cung”, “bản cung, tha cung”, “phi cung, lạc cung, “bát cung, cửu cung” và các khái niệm trọng yếu khác trong mệnh lý học bát tự Bình Môn, mà còn đem nội dung “Tinh Cung Đồng Tham” trong sách “Bình Sách Mệnh Lý Bí Tung” xuất bản đầu năm 2003 cùng một chỗ giảng giải. Sau này các nhà các phái, khi bàn đến Cửu cung phi tinh, đều khó vượt qua nội dung đề cập tại đây.

Khâu Bình Sách “Bát tự cửu cung phi tinh quyết”

Một, nội cung ngoại cung
Bình môn phi cung có chính luận, lấy nhật làm chủ biện lục thân
Tứ trụ bát tự phân nội ngoại, nội ngoại không thấy, tìm tại cửu cung.

Hai, bản cung tha cung
Lục thân phi tinh lạc chỗ nào, bản cung tha cung cẩn thận tính
Phi tinh định vị lạc cung chuẩn, liền biết thập thần không bay loạn.

Ba, phi cung lạc cung
Lục thân chủ tinh có khắc ứng, thuỳ tượng đều tại trong lạc cung
Nguyên cục lục thân tinh không thấy, liền tìm phi cung định cát hung.

Bốn, bát tự cửu cung
Lục thân cát hung làm sao tính, tinh cung đồng tham phải hiểu rõ
Bát cung hỷ kỵ có thật giả, cửu cung phân minh, thiên địa tỏ

Giải thích các danh từ dùng trong Bát Tự Cửu Cung Phi Tinh của Khâu Bình Sách:

1. Phi tinh: chỉ lục thân chủ tinh không tại bát cung tứ trụ, mà là phi nhập trong “cửu cung”.
2. Chủ tinh: là lục thân chủ tinh, chỉ thập thần đại biểu lục thân trong mệnh lý học. Ví dụ như nam mệnh, Thiên Tài là chủ tinh của cha, Chính Ấn là chủ tinh của mẹ, Chính tài là chủ tinh của vợ.
3. Bản cung: chỉ cung vị sở tại của bản thân lục thân. Như niên trụ là phụ mẫu cung, thì niên can, niên chi phân biệt là bản cung của cha và mẹ. Tương tự, nguyệt trụ là huynh đệ tỷ muội cung, nhật trụ là phu thê cung, thời trụ là tử nữ cung.
4. Tha cung: chỉ cung vị khác, ngoài bản cung của một lục thân
5. Nội cung: chỉ lục thân tại nội cung của nguyên cục tứ trụ. Trong nguyên cục, niên trụ và nguyệt trụ đại biểu nội cung.
6. Ngoại cung: chỉ lục thân tại ngoại cung của nguyên cục tứ trụ. Trong nguyên cục, nhật trụ và thời trụ đại biểu ngoại cung.
7. Phi cung: chỉ lục thân chủ tinh không tại bản cung, mà phi tại một cung nào đó bên ngoài bản cung trong bát tự, hoặc phi tại cửu cung.
8. Lạc cung: chỉ cung vị mà lục thân chủ tinh toạ lạc. Lạc cung của lục thân chủ tinh có thể là tại bản cung, có thể là tại tha cung, cũng có thể là tại cửu cung.
9. Bát cung: chỉ tám can chi của tứ trụ bát tự, đại biểu tám cung.
10. Cửu cung: chỉ cung vị thứ chín, ngoài tám cung trong nguyên cục tứ trụ.


Bình Sách chú: Khi Bình môn tiên sinh Bàn Long Chân Nhân truyền quyết có đem “Cửu Cung” xung là “Cửu Tiêu Cung”, nói rằng bát tự “Cửu cung” giống như Dụng Hào trong hai qủe Càn Khôn trong Dịch Kinh, vốn tồn tại siêu việt sáu hào còn lại. “Cửu cung” trong Bình Môn bát tự sở dĩ còn được gọi là “Cửu Tiêu Cung”, áp đảo vượt qua bát cung, vị trí tại chín tầng mây, trong ngân hà.

“Tinh cung đồng tham” ý chỉ khi phê đoán cát hung một lục thân nào đó, cùng với những sự việc liên quan đến lục thân đó, nhất định phải tổng hợp thông tin cát hung của cả chủ tinh và cung vị của lục thân đó thì mới có thể luận đoán chính xác. Nếu như chỉ xem vượng suy hỷ kỵ của “lục thân tinh” mà không quan tâm đến cung vị, hoặc chỉ xem cung vị của lục thân mà k hông nhìn tác dụng cát hung của “lục thân tinh”, như vậy kết quả phê đoán nào đều sẽ không toàn diện.

Ngoài ra, Bình Phái bát tự “Cửu cung phi tinh quyết” còn có cách vận dụng cụ thể kĩ thuật “Tinh cung đồng tham”. Khâu Bình Sách tiên sinh đã sớm công khai kĩ thuật này vào năm 2003 khi xuất bản “Bình Sách Mệnh Lý Bí Tung”. Trong sách, chương Hôn Nhân, vận dụng Phối ngẫu tinh và Phối ngẫu cung, tinh cung đồng tham phương pháp để đoán tinh chuẩn ứng kì hôn nhân. Giảng giải như sau:

Trong bát tự, hôn kỳ mệnh lý bao quát hai phương diện phía dưới:

Một, nguyên cục có phối ngẫu tinh (nữ xem Quan tinh, nam xem Tài tinh) vốn có bệnh lại gặp được thuốc mà ứng thời điểm. Cụ thể giải thích, bất luận mệnh nam nữ, nguyên cục có phối ngẫu tinh là kỵ, hôn kỳ ứng tại năm có tác dụng chế hoá kỵ thần. Nguyên cục có phối ngẫu tinh là hỷ dụng, hôn kỳ ứng tại năm sinh vượng hoặc năm trợ giúp hỷ dụng.

Hai, nguyên cục có phối ngẫu cung (nhật chi trong nguyên cục) là kỵ, tuế vận nếu chế phục là đắc nghi. Nguyên cục có phối ngẫu cung là hỷ dụng thần, tuế vận nghi sinh trợ.


Ví dụ một: Lai Thành khu, Bắc phụ, tiểu Tào
Càn tạo: Đinh Tỵ - Quý Sửu – Quý Dậu – Mậu Ngọ
Đại vận: Nhâm Tý, Tân Hợi, Canh Tuất, Kỷ Dậu, Mậu Thân, Đinh Mùi, Bính Ngọ

Phân tích mệnh cục: Bát tự này nguyên cục thân vượng kỵ Ấn Tỷ. Đại vận Canh Tuất, năm Canh Thìn, Thìn xung Tuất mà kích hoả, càng lại hợp trói hôn nhân cung Dậu kim toạ dưới Nhật chủ, kết hôn.


Ví dụ hai: Lai Thành khu, đường Bắc Thản, một ông chủ
Càn tạo: Giáp Dần – Kỷ Tỵ - Đinh Mùi – Bính Ngọ
Đại vận: Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu, Giáp Tuất, Ất Hợi, Bính Tý, Đinh Sửu

Phân tích mệnh cục: Bát tự này tòng cường, Tài tinh là kỵ không hiện, hôn nhân cung táo thổ trợ thân, hôn nhân tất nhiên tốt mà lại sớm. Đại vận Tân Mùi, lưu niên Bính Tý, vận can Tân kim hợp trói Bính hoả, vận chi Mùi thổ khắc tuế chi Tý thuỷ, Tý thuỷ không khắc Tỵ Ngọ hoả, ứng cát mà kết hôn.


Ví dụ ba: Lai Thành khu, một người nữ
Khôn tạo: Quý Sửu – Kỷ Mùi – Bính Dần – Quý Tỵ
Đại vận: Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi, Giáp Tý, Ất Sửu

Phân tích mệnh cục: Nhật nguyên Bính hoả sinh tại tháng Mùi, vượng. Toạ dưới có Dần mộc tương sinh, lại khí quán thời trụ, thế vượng cực. Niên can Quý thuỷ bị Kỷ thổ khắc thương mà không thể chế hoả. Sửu thổ là căn của Quý cũng bị nguyệt lệnh xung tổn thương, cho nên thời can Quý thuỷ cũng không có lực. Hoả vượng cực không hỷ khắc chế, phản cục tòng cường, dụng kỷ thổ Thương Quan chế thuỷ là sáng suốt. Vận Nhâm Tuất, lưu niên Mậu Dần, Tuất thổ khắc Nhâm hợp Quý, kết hôn. Lưu niên Canh Thìn, Canh sinh Nhâm, Sát công thân mà ngoại tình. Năm Quý Mùi ly hôn.

Đăng ngày: 3/12/2020 12:54:03 PM
Lần xem: 2212 lần - Phản hồi: 3
Người đăng: buiquangchinh77 - Mã số ID: 22
Email: [email protected]
buiquangchinh77 | Đăng ngày 3/12/2020

Tử Bình Tạp Lục. Bài 3: Một lần đi xem thầy Manh Phái
(Ghi chú: Link này không còn hoạt động)

(Dịch thô)
Trong một lĩnh vực đặc thù, sẽ có một ít đặc thù tồn tại. Nói đến bát tự, rất nhiều người đều sẽ liên tưởng đến khi còn nhỏ có một ông lão thầy bói mù đi vào thôn, chỉ là khi đó tuổi còn nhỏ, chi nghe được rất nhiều người lớn miệng nói vâng vâng, dạ dạ, đại sư nói đúng, nói thật là chuẩn, nghe mà cảm thấy hiếu kỳ ông lão xấu xí này có lợi hại như vậy hay sao.
Lớn lên tiếp xúc nhiều tri thức hơn, liền cảm thấy hứng thú với bát tự. Trong lĩnh vực bát tự thì thanh danh Manh Phái là nửa xấu nửa tốt, cho nên càng gợi cho tôi tò mò. Thẳng đến một ngày tôi gặp được một vị cao nhân.
Cùng người thân tổng cộng hơn 20 cái mệnh lệ lấy ra khảo nghiệm, sơ bộ tổng kết được vài đặc điểm đoán mệnh của Manh Phái cao nhân:
1 - Tuyệt đối không thu phí cao. Khoảng 5 tệ. Thật bất ngờ, bởi vì muốn gia nhập Manh Phái phải lập lời thề. An bần lạc đạo cũng là một loại khảo nghiệm phẩm đức.

2 - Người đến coi mệnh một bên báo ra bát tự, một bên cao nhân Manh Phái đã bắt đầu giảng giải vận mệnh. Bài xong bát tự tối đa 3 giây là bắt đầu giải, tuyệt không có ngưng lại để suy nghĩ. Một khi giải mệnh liền là thao thao bất tuyệt, không để cho người đến xem mệnh xen vào.

3 - Câu nói đầu tiên là đoán đương số còn sống hay đã mất. Câu thứ hai đoán người này có hay không công ăn việc làm ổn định, cùng với trình độ cao hay thấp. Cao nhân Manh phái khi giải mệnh em trai tôi, làm cho nó muốn hồ đồ rồi: Đứa nhỏ này 16 tuổi việc học muốn đứt đoạn, vì sao lại có đến học vị tiến sĩ? Tôi đáp: Nó 16 tuổi đi nước ngoài, việc học bị đứt đoạn, sau lại tiếp tục đi học. Cao nhân Manh phái: ra là vậy.

4 - Câu thứ ba hỏi cầm tinh của cha mẹ. Câu thứ tư nói lúc cha hay mẹ tạ thế, em tôi có ở bên cạnh tống chung hay không.

5 - Câu thứ sáu nói về số lượng anh em và thứ bậc trong nhà. 27 bát tự chỉ đoán sai một cái. Vợ tôi chỉ có hai chị em gái, là chị; cao nhân Manh phái lại nói là chỉ có hai chị em gái, là vai em.

6 - Câu thứ bảy đoán đương số kết hôn hay chưa, năm nào kết hôn, năm nào ly hôn. Nếu chưa kết hôn thì năm nào có Hồng Loan. Nói rất chắc chắn rõ ràng, không mập mờ. Em trai thứ chín của tôi từ Bắc Kinh xuống hỏi bát tự, cao nhân nhàn nhạt một câu: Ông vợ chính thức 3 bà, ngầm thì ít nhất 6 người. Đoán đến xém chút em tôi muốn quỳ xuống. Nó hiện tại ba vợ, còn tình nhân theo tôi biết có 4 người.

7 - Câu thứ tám đoán mệnh chủ đã có con cái hay chưa, đã có mấy con, sẽ còn có mấy đứa. Có bát tự nữ mệnh, cao nhân đoán cô đã sinh 4 đứa con gái, hiện tại lại có thai, hẳn là mang thai vào tháng 7, sang năm nhất định sinh con trai, mẹ con bình an; đừng đi siêu âm làm gì cho tốn tiền, lại không tốt đối với sức khoẻ; như sang năm sinh con không đúng như vậy, có thể quay lại đập bảng hiệu. (Cao nhân Manh phái đã ở chỗ nào treo bảng đoán mệnh hơn 40 năm.)

8 - Tiếp theo đoán vận. Cao nhân Manh Phái chỉ đoán 5 năm quá khứ và 5 năm tương lai, không đoán nhiều. Những năm khác trừ khi có hạn lớn hoặc hỷ sự lớn thì mới đặc biệt nói ra. Gặp phải bát tự có cha mẹ lớn tuổi, như trong 10 năm tới cha mẹ tạ thế, sẽ nói thẳng năm nào có tang sự, là tang nam hay là tang nữ, tuyệt không mập mờ.

9 - Cao nhân Manh Phái có qui tắc: đương số 13 tuổi trở xuống không coi mệnh, 65 tuổi trở lên có hỏi mới nói cho biết thọ hạn.

10 - Sau đó đoán năm nay cát hung thế nào. Tháng 11 có một người bà con xa của tôi có đến xem mệnh, cao nhân bảo năm nay lái xe cẩn thận. Hơn 10 ngày sau lái xe nâng trong công trình bị lật xe, bà vợ giả trang đến hỏi mệnh, cao nhân câu đầu tiên đã nói: “Đứa bè này, nếu như hiện tại bình yên vô sự, vậy thì năm nay tai hoạ gì cũng sẽ không có, nhưng tiền tài hao thì đã hao rồi.

11 - Kế tiếp đoán đương số năm nay có thể phát tài ở phương nào, không thể phát tài ở phương nào.

12 - Từ đầu đến đây là đoán một mạch, lúc này mới xem như đoán xong, mới để cho đương số xen vao, có việc thì hỏi, có sai lệch thì nói ra, cao nhân lại giúp cân nhắc.

13 - Lúc này cao nhân mù sẽ nói 1 câu: “Đương số có thể hỏi một sự kiện, có việc thì hỏi, không có việc thì có thể đi”.

14 - Từ lúc báo ngày sinh đến lúc hỏi xong khoảng 8-10 phút. Cao nhân mù thu phí 5 tệ.

15 - Cao nhân mù tính tình thoải mái, mỗi hút một cữ thuốc, liền xem 5 bát tự. Có khi cao hứng còn hát lên ca quyết, gieo vần êm tai, vừa hát vừa dùng chân nhịp.
buiquangchinh77 | Đăng ngày 3/12/2020

Tử Bình Tạp Lục. Bài 4: Thái Ất Thân Mệnh Thập Nhị Cung (phần 1)


Thiên Khánh nhận xét nhanh: Khi trước tôi có đề cập đến việc có nhiều loại 12 cung chức khác nhau. Mười hai cung chức Tử Vi, và Tử Bình (Quả Lão Tinh Tông) khá phổ biến. Hôm nay tôi lại giới thiệu tiếp 12 cung chức Thái Ất. Tuy nhiên, đây là tài liệu trên Internet nên mong moi người thận đọc. Gạn đục khơi trong là trách nhiệm của người đọc.

Thái Ất Thân Mệnh Thập Nhị Cung (phần 1)
Các trứ tác mệnh lý cổ đại khi thôi diễn vận mệnh cả đời của một người thường đều lấy mệnh vận nhân sinh của người đó phân thành mười hai phương diện: cung mệnh, cung anh em, cung thê thiếp, cung con cái, cung tiền tài, cung điền trạch, cung quan lộc, cung nô bộc, cung tật ách, cung phúc đức, cung tướng mạo, cung phụ mẫu. Mười hai phương diện này (mười hai cung) sẽ tổ hợp thành mệnh vận cả đời của một người. Mệnh cung làm đầu, cũng là quan trọng nhất, bởi vì từ mệnh cung có thể xem được khái quát vận mệnh cả đời người, còn lại các cung khác, mỗi cung phản ánh một phương diện tình huống khác nhau. Như cung anh em có thể tính ra có bao nhiêu anh chị em, anh chị em giàu nghèo, quý tiện; cung tiền tài có thể tính ra tài vận đời người, hoặc giàu hoặc nghèo, hoặc trước nghèo sau giàu, hoặc trước giàu sau nghèo, vân vân. Mười hai cung còn gọi chung là Thân Mệnh Thập Nhị Cung.

Tại sao cần phải phân thành mười hai cung? Bởi vì cổ nhân cho rằng trời có mười hai tầng (mười hai thiên tướng, còn gọi là nguyệt tướng), đất có mười hai thần (mười hai địa chi), người có mười hai cung, vậy là thiên địa nhân tam vị nhất thể, cảm ứng lẫn nhau, tam tài thống nhất. Dùng ngôn ngữ hiện tại mà nói thì là trời đất, giới tự nhiên cùng con người có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, những biến hoá trong giới tự nhiên nhất định sẽ ảnh hưởng đến con người; từ những biến hoá, biến dị trong giới tự nhiên, tương ứng sẽ sinh ra hoạ phúc tai ương trong xã hội loài người. Vận mệnh của một người có mối liên hệ chặt chẽ với trời đất và giới tự nhiên. Đây chính là quan điểm nhân sinh “Thiên nhân quan” nổi tiếng trong thời cổ đại, hoặc còn gọi là “Thiên nhân cảm ứng quan”. Loại quan điểm này hầu như ảnh hướng đến tất cả các lĩnh vực trong hình thái ý thức cổ đại. Quan điểm này chính là cơ sở lý luận cho Thân mệnh mười hai cung.

Trời đất tự nhiên thay đổi, nhất là thay đổi về khí hậu, đối với tình trạng thân thể của con người, cũng như tình trạng bệnh tật, sinh sản, sinh hoạt đều sẽ có ảnh hưởng. Điểm này ai cũng đều có thể hiểu được. Nhưng nếu cho rằng những biến hoá trong trời đất, giới tự nhiên có liên hệ với vận mệnh, cát hung hoạ phúc đời người, thì lại vô cùng khó hiểu. Chúng ta có thể dùng lí luận kết hợp với thực tiễn nghiên cứu vấn đề này, nhằm giải thích vấn đề thiên cổ này.

Bây giờ quay lại vấn đề Thân mệnh mười hai cung. Phương pháp đoán mệnh cổ đại bằng tứ trụ bình thường đều dùng Thân mệnh mười hai cung để tiến hành thôi diễn, thuật đoán mệnh Thái Ất cũng cơ bản giống vậy. Nhưng theo thuật Thái Ất mệnh pháp, ngoài trừ thân mệnh mười hai cung, còn có thân cung, nhật cung, và thời cung, thực thế thành Thân mệnh mười lăm cung. Tuy nhiên về mặt tên gọi, vẫn thống nhất gọi là Thân mệnh mười hai cung.

Thái Ất mệnh pháp so với Tứ trụ mệnh pháp tại sao lại có thêm ba cung là thân cung, nhật cung, và thời cung? Nguyên nhân là từ những công cụ và phương pháp suy tính đặc biệt của bộ môn Thái Ất. Cũng chính là nói bởi vì phải thích ứng với phương pháp suy tính của Thái Ất mà mới cần thêm vào thân cung, nhật cung, và thời cung; thực tế dùng thân mệnh mười lăm cung. Vấn đề này thực chất không có gì là lạ.

Phía dưới giới thiệu chi tiết và cụ thể phương pháp suy tính và nội dung phân biệt Thân mệnh mười hai cung (thực tế là mười lăm cung).

Một: Mệnh cung

Mệnh cung quyết định vận mệnh cả đời người, là quan trọng nhất. Mệnh cung là thủ lĩnh của mười hai cung. Mười hai cung sắp xếp theo thứ tự là: mệnh cung, huynh đệ cung, thê thiếp cung, tử tôn cung, tài bạch cung, điền trạch cung, quan lộc cung, nô bộc cung, tật ách cung, phúc đức cung, tướng mạo cung, phụ mẫu cung. Mười hai cung phối mười hai địa chi, trước xác định vị trí mệnh cung, còn các cung khác sắp xếp theo thứ tự thuận hay nghịch.

1. Cách an mệnh cung

Cách khởi mệnh cung là lấy địa chi của tháng sinh chồng niên chi, sau đó theo thứ tự mười hai chi, lấy địa chi giờ sinh định mệnh cung. Nam sinh năm dương và nữ sinh năm âm thì xếp thuận, nam sinh năm âm và nữ sinh năm dương thì xếp nghịch.

Niên chi, nguyệt chi, nhật chi, thời chi là gì?

Thời cổ đại nước ta sử dụng mười thiên can (Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý) cùng mười hai địa chi (Tý Sửu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi) phối hợp với nhau để ghi nhớ năm, tháng, ngày, giờ. Mười thiên can và mười hai địa chi có bội số chung nhỏ nhất là 60, cho nên mười thiên can phối mười hai địa chi thành 60 cái đơn vị, gọi là Lục thập giáp tý. Lục thập giáp tý theo thứ tự thuận như sau:

1. Giáp Tý, 2. Ất Sửu, 3. Bính Dần, 4. Đinh Mão, 5. Mậu THìn, 6. Kỷ Tỵ, 7. Canh Ngọ, 8. Tân Mùi, 9. Nhâm Thân, 10. Quý Dậu, 11. Giáp Tuất, 12. Ất Hợi, 3. Bính Tý, 14. Đinh Sửu, 15. Mậu Dần, 16. Kỷ Mão, 17. Canh Thìn, 18. Tân Tỵ, 19. Nhâm Ngọ, 20. Quý Mùi, 21. Giáp Thân, 22. Ất Dậu, 23. Bính Tuất, 24. Đinh Hợi, 25. Mậu Tý, 26. Kỷ Sửu, 27. Canh Dần, 28. Tân Mão, 29. Nhâm Thìn, 30. Quý Tỵ, 31. Giáp Ngọ, 32. Ất Mùi, 33. Bính Thân, 34. Đinh Dậu, 35. Mậu Tuất, 36. Kỷ Hợi, 37. Canh Tý, 38. Tân Sửu, 39. Nhâm Dầm, 40. Quý Mão, 41. Giáp Thìn, 42. Ất Tỵ, 43. Bính Ngọ, 44. Đinh Mùi, 45. Mậu Thân, 46. Kỷ Dậu, 47. Canh Tuất, 48. Tân Hợi, 49. Nhâm Tý, 50. Quý Sửu, 51. Giáp Dần, 52. Ất Mão, 53. Bính Thìn, 54. Đinh Tỵ, 55. Mậu Ngọ, 56. Kỷ Mùi, 57. Canh Thân, 58. Tân Dậu, 59. Nhâm Tuất, 60. Quý Hợi.

Dùng Lục thập giáp tý để ghi năm, tháng, ngày, giờ thì bắt đầu khởi từ Giáp Tý, đến Quý Hợi thì ngừng, sau đó tuần hoàn lặp lại. Lấy việc ghi năm làm ví dụ, như năm Giáp Tý, Giáp là niên can, Tý là niên chi. Năm Ất sửu thì Ất là niên can, Sửu là niên chi. Ghi tháng, ghi ngày, ghi giờ cũng tương tự. Trong thực tế thì thường muốn biết niên can chi, nguyệt can chi, nhật can chi, thời can chi có thể dùng lịch vạn niên để tìm.

Cần nói thêm, nguyệt chi còn gọi là nguyệt kiến. Một năm có mười hai tháng, các nguyệt chi cho từng tháng đều là cố định như sau: tháng Giêng Dần, tháng hai Mão, tháng ba Thìn, tháng tư Tỵ, tháng năm Ngọ, tháng sáu Mùi, tháng bảy Thân, tháng tám Dậu, tháng chín Tuất, tháng mười Hợi, tháng mười một Tý, tháng Chạp Sửu.

Mười thiên can và mười hai địa chi cũng có thuộc tính âm dương, cũng có thuộc tính ngũ hành kim, mộc, thuỷ, hỏa, thổ. Giáp Bính Mậu Canh Nhâm thuộc dương, là dương can. Ất Đinh Kỷ Tân Quý thuộc âm, là âm can. Tý Dần Thìn Ngọ Thân Tuất thuộc dương, là dương chi. Sửu Mão Tỵ Mùi Dậu Hợi thuộc âm, là âm chi. Giáp Ất Dần Mão thuộc mộc, Bính Đinh Tỵ Ngọ thuộc hoả, Canh Tân Thân Dậu thuộc kim, Nhâm Quý Hợi Tý thuộc thuỷ, Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi thuộc thổ.

Phương vị cũng có thuộc tính ngũ hành: phương Bắc thuộc thuỷ, phương Đông thuộc mộc, phương Nam thuộc hoả, phương Tây thuộc kim, trung ương thuộc thổ.

Mười hai địa chi cũng phân chia theo phương vị: Tý là Bắc, Ngọ là Nam, Mão là Đông, Dậu là Tây, Sửu Dần là Đông Bắc, Thìn Tỵ là Đông Nam, Mùi Thân là Tây Nam, Tuất Hợi là Tây Bắc.

(lược bỏ đồ hình an mười hai địa chi trên bàn tay trái)

Trong mười hai địa chi, Dần Thân Tỵ Hợi là tứ mạnh, Tý Ngọ Mão Dậu là tứ trọng, Thìn Tuất Sửu Mùi vì tứ quý. Tứ quý còn gọi là tứ mộ. Ba tháng mùa xuân, tháng Giêng tại tháng Dần, còn gọi là mạnh xuân. Tháng hai là tháng Mão, còn gọi là trọng xuân. Tháng ba là tháng Thìn, còn gọi là quý xuân. Hạ, thu, đông tính tương tự.

Sau khi biết các kiến thức cơ bản, hiện tại chúng ta lại nói đến phương pháp khởi mệnh cung. Nam mệnh sinh năm dương gọi là dương nam, nam mệnh sinh năm âm gọi là âm nam, nữ mệnh sinh năm dương gọi là dương nữ, nữ mệnh sinh năm âm gọi là âm nữ. Đối với phương pháp khởi mệnh cung, không luận mệnh nam hay mệnh nữ, đều là từ địa chi tháng sinh chồng lên địa chi năm sinh, dương nam và âm nữ theo thứ tự xếp thuận mười hai chi, âm nam và dương nữ theo thứ tự xếp nghịch mười hai chi. Lại lấy địa chi giờ sinh định mệnh cung. Sau khi định được mệnh cung, hương nam âm nữ theo thứ tự sắp xếp thuận các cung huynh đệ, thê thiếp, tử tôn, tài bạch, điền trạch, quan lộc, nô bộc, tật ách, phúc đức, tướng mạo, phụ mẫu. Âm nam và dương nữ theo thứ tự xắp xếp nghịch cách cung huynh đệ, thê thiếp, tử tôn, tài bạch, điền trạch, quan lộc, nô bộc, tật ách, phúc đức, tướng mạo, phụ mẫu.

Ví dụ 1: Dương nam sinh vào năm Giáp Tý, tháng Bính Dần, ngày Ất Sửu, giờ Giáp Thân, xem mệnh cung an ở đâu. Lấy nguyệt chi Dần chồng lên niên chi Tý (TK: tức là bấm vào vị ví Tý trên lòng bàn tay trái đọc Dần, thay vì đọc Tý). Theo thứ tự sắp xếp thuận mười hai chi, ta có đồ hình:

Mùi Thân Dậu Tuất
Ngọ Hợi
Tỵ Tý
Thìn Mão Dần Sửu

Để thuận tiện, Thiên Khánh giải thích đồ hình bằng lời văn: Dần (vị trí cũ là Tý), Mão (vị trí cũ là Sửu), Thìn (vị trí cũ là Dần), Tỵ (vị trí cũ là Mão), Ngọ (vị trí cũ là Thìn), Mùi (vị trí cũ là Tỵ), Thân (vị trí cũ là Ngọ), Dậu (vị trí cũ là Mùi), Tuất (vị trí cũ là Thân), Hợi (vị trí cũ là Dậu), Tý (vị trí cũ là Tuất), Sửu (vị trí cũ là Hợi)

Người này sinh vào giờ Thân, trên đồ hình, cung Thân đang ở vị trí của Ngọ trên bàn tay trái. Người này mệnh cung bày như sau (TK: lúc này vị trí các cung tính theo vị trí mười hai địa chi trên lòng bàn tay trái theo kiểu cũ, tức cung Tý ở vị trí chính Bắc): một, mệnh cung Ngọ; hai, huynh đệ cung Mùi; ba, thê thiếp cung Thân; bốn, tử tôn cung ; năm, tài bạch cung Tuất; sáu, điền trạch cung Hợi; bảy, quan lộc cung Tý; tám, nô bộc cung Sửu; chín, tật ách cung Dần; mười, phúc đức cung Mão; mười một, tướng mạo cung Thìn; mười hai, phụ mẫu cung Tỵ.

Ví dụ 2: Âm nam sinh vào năm Ất Sửu, tháng Mậu Dần, ngày Bính Ngọ, giờ Bính Thân, xem mệnh cung an ở vị trí nào. Lấy nguyệt chi Dần chồng lên niên chi Sửu, theo thứ tự sắp xếp nghịch mười hai địa chi được đồ hình:

Tuất Dậu Thân Mùi
Hợi Ngọ
Tý Tỵ
Sửu Dần Mão Thìn

Người này sinh vào giờ Thân, Thân hiện đang ở vị trí của Mùi, cho nên mệnh cung tại Mùi. Người này có mười hai cung sắp xếp như sau: một, mệnh cung Mùi; hai, huynh đệ cung Ngọ; ba, thê thiếp cung Tỵ; bốn, tử tôn cung Thìn; năm, tài bạch cung Mão; sáu, điền trạch cung Dần; bảy, quan lộc cung Sửu; tám, nô bộc cung Tý; chín, tật ách cung Hợi; mười, phúc đức cung Tuất; mười một, tướng mạo cung Dậu; mười hai, phụ mẫu cung Thân.

2. Phương pháp an thân cung

Thân cung và mệnh cung có ý nghĩa đại khái giống nhau, đều là tổng quát về vận mệnh cả đời người, có tác dụng bổ sung và tham khảo cho mệnh cung. Phương pháp định thân cung, trước lấy địa chi tháng sinh chồng lên địa chi năm sinh, dương nam âm nữ sắp xếp thuận, âm nam dương nữ sắp xếp nghịch. Sau đó lấy vị trí mà địa chi ngày sinh chồng lên làm thân cung.

Ví dụ 1: Năm Giáp Tý, tháng Bính Dần, ngày Ất Sửu, giờ Giáp Thân (dương nam), cần xác định vị trí thân cung.

Đầu tiên lấy địa chi tháng sinh chồng lên địa chi năm sinh. Sau đó sắp xếp thuận mười hai chi. Tức là lấy địa chi Dần của tháng Bính Dần chồng lên địa chi Tý của năm Giáp Tý, sau đó sắp xếp thuận mười hai chi. Lại xem địa chi Sửu của ngày sinh Ất Sửu chồng lên cung nào thì lấy cung đó làm thân cung. Phía dưới có đồ hình:

Mùi Thân Dậu Tuất
Ngọ Hợi
Tỵ Tý
Thìn Mão Dần Sửu

Người này sinh ngày Ất Sửu, Sửu hiện chồng lên cung Hợi, thì Hợi là thân cung.

Ví dụ 2: Năm Ất Sửu, tháng Mậu Dần, ngày Bính Ngọ, giờ Bính Thân (âm nam), tìm vị trí an thân cung.

Lấy nguyên chi Dần chồng lên niên chi Sửu, sắp xếp theo thứ tự nghịch mười ai cung, có đồ hình bên dưới:

Tuất Dậu Thân Mùi
Hợi Ngọ
Tý Tỵ
Sửu Dần Mão Thìn

Người này sinh vào ngày Bính Ngọ. Trên đồ hình, Ngọ chồng lên cung Dậu, cho nên vị trí của Dậu trên địa bàn là thân cung.

3. Phương pháp an nhật cung

Phương pháp khởi nhật cung rất đơn giản, không tính dương nam âm nữ, âm nam dương nữ, sinh vào ngày có địa chi gì thì cung đó trên địa bàn chính là nhật cung. Như người sinh ngày Giáp Tý, thì cung Tý trên địa bàn chính là nhật cung. Người sinh ngày Ất Sửu, thì cung Sửu tên địa bàn chính là nhật cung. Người sinh ngày Bính Dần, thì cung Dần trên địa bàn là nhật cung.

4. Phương pháp an thời cung

Phương pháp khởi thời cung cũng giống như khởi nhật cung. Không tính dương nam âm nữ, hay âm nam dương nữ, sinh vào giờ có địa chi gì thì cung đó trên địa bàn chính là thời cung. Như người sinh giờ Giáp Tý thì cung Tý trên địa bàn chính là thời cung. Người sinh giờ Ất Sửu thì cung Sửu trên địa bàn là thời cung. Người sinh giờ Bính Dần thì cung Dần trên địa bàn là thời cung.

5. Xem cát hung mệnh cung

Mệnh cung như gặp cát tinh thì chủ cát, như gặp hung tinh thì chủ hung. Nếu mệnh cung gặp cả cát tinh lẫn hung tinh, nếu cát tinh thắng hung tinh thì luận cát, nếu hung tinh thắng cát tinh thì luận hung. Nếu gặp toàn cát tinh hoặc gặp toàn hung tinh thì độ số cát hung có khác.

Mệnh cung lạc Không là điềm xấu. Vậy mệnh cung lạc Không là gì?

Mệnh cung lạc không là chỉ mệnh cung gặp vị trí Không Vong. Ở đây cần biết nội dung Lục giáp không vong. “Lục giáp” là chỉ “Tuần Lục giáp”. Trong 60 ngày Lục thập Giáp Tý, phân làm tuần Giáp Tý, tuần Giáp Tuất, tuần Giáp Thân, tuần Giáp Ngọ, tuần Giáp Thìn, tuần Giáp Dần, gọi là Tuần Lục giáp. Mỗi tuần có 10 ngày, mà thiên can có 10 vị, địa chi có 12 vị, thiên can và địa chi phối hợp, sẽ dư 2 vị trí địa chi. Như vậy hai địa chi không có thiên can để phối hợp này gọi là Không Vong.
Tuần Giáp Tý, Tuất Hợi Không Vong.
Tuần Giáp Tuất, Thân Dậu Không Vong.
Tuần Giáp Thân, Ngọ Mùi Không Vong.
Tuần Giáp Ngọ, Thìn Tỵ Không Vong.
Tuần Giáp Thìn, Dần Mão Không Vong.
Tuần Giáp Dần, Tý Sửu Không Vong.

Mệnh cung nếu ở vị trí cung vị Không Vong thì gọi là mệnh cung lạc Không. Mệnh cung lạc Không là căn cứ vào can chi. Như sinh vào tuần Giáp Tý, mệnh cung an ở Tuất Hợi thì là lạc Không.

Tuần Giáp Tý có 10 ngày Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu.

Tuần Giáp Tuất có 10 ngày Giáp Tuất, Ất Hợi, Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Quý Mùi.

Tuần Giáp Thân có 10 ngày Giáp Thân, Ất Dậu, Bính Tuất, Đinh Hợi, Mậu Tý, Kỷ Sửu, Canh Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tỵ.

Tuần Giáp Thìn có 10 ngày Giáp Thìn, Ất tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Thìn, Tân Hợi, Nhâm tý, Quý Sửu.

Tuần Giáp Dần có 10 ngày Giáp Dần, Ất Mão, Bính Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi.

Thái Ất mệnh thư tổng cộng có 16 sao, khi 16 sao này lâm mệnh cung đều có ý nghĩa riêng. Quân Cơ, Thần Cơ, Ngũ Phúc, Tiểu Du, Văn Xương, Kế Thần khi lâm mệnh cung, chủ hiển quý. Dân Cơ lâm mệnh chủ đến chỗ cơ quản quản lí dân, tức làm quan, cũng là phát tài, thu hoạch sung túc. Chủ Đại Tướng, Chủ Tham Tướng toạ mệnh cung, chủ về võ nghiệp, binh quyền quý hiển, nhậm chức gần thành thị. Khách Đại Tướng, Khách Tham Tướng đến mệnh cung, chủ võ nghiệp, binh quyền quý hiển, nhậm chức tại biên ải. Mệnh cung lạc Không, chủ hư giả không thực, nhàn cư vi bất thiện, phù phiếm vô định, không thế không thời.

6. Cát hung của thân cung, nhật cung và thời cung

Quan Cơ, Thần Cơ, Thuỷ Kích lâm thân cung, nhật cung, thời cung, chủ bệnh tim, bị thương, ngộ độc, mủ nhọt. Tiểu Du, Phi Phù lâm thân cung, nhật cung, thời cung chủ bệnh huyết dịch, đau nhức, bệnh tim. Thuỷ Kích Thái Ất, Phi Phù đến thân cung, nhật cung, chủ bệnh mắt, hô hấp, bệnh phổi. Thái Ất, Phi Phù đến thân cung, nhật cung, thời cung, chủ bệnh ho lao, bệnh đường ruột. Thân cung lạc Không, chủ ly hương biệt xứ, cáo mượn oai hùm, vô pháp vô thiên, lỗ mãng ngỗ ngáo, phiêu du vô định, ăn nhờ ở đậu nhà chùa đạo quán, đưa thư viết tin (?), ca kĩ tạp hí.

Niên nguyệt lạc Không, chủ tuổi thơ không nơi nương tựa, cha mẹ hình thương, không thể tự lập, không nhờ vả được quê quán. Nhật trụ lạc Không, chủ hại vợ tổn con, tầm thường tất bật, tiến lùi đều thua, nhiều sầu nhiều lo. Thời trụ lạc Không, chủ goá bụa cô độc, nhiều sầu nhiều lo, bệnh lao, suy nhược, tâm thần, vàng da, không thọ, cả đời đau khổ.

7. Cát hung huynh đệ cung

Huynh đệ cung lạc Không, chủ hình thương, ghen ghét, keo kiệt, bạn bè bù khú, cà lơ phất phơ, khắc bạc bất nghĩa.

8. Cát hung thê thiếp cung

Thê thiếp cung như ngộ cát tinh, vợ chồng không hình khắc; như ngộ hung tinh có hình tổn, hoặc hôn nhân chậm muộn. Thê thiếp cung lạc Không, chủ hình khắc quan quả, nửa đường gãy gánh, keo kiệt bủn xỉn, xảo trá thị phi, lừa dối ám muội.

9. Cát hung tử tôn cung

Tử tôn cung gặp cát tinh, chủ sinh quý tử; gặp hung tinh, chủ sinh nữ trước nam sau, hoặc chủ tổn thương, con vợ lẻ mới có thể bình an. Tử tôn cung gặp Tiểu Du, Ngũ Phúc, Quân Cơ, Thần Cơ, chủ có 3 con trai. Tử tôn cung gặp Kế Thần, Khách Đại Tướng, Dân Cơ, chủ 2 có 2 con trai. Tử tôn cung gặp Khách Tham Tướng, chủ có 1 con trai. Tử Tôn cung gặp Chủ Tham Tướng, chủ có 6 con trai. Tử tôn cung gặp Văn Xương, Thiên Ất, chủ có 4 con trai. Tử tôn cung gặp Thuỷ Kích, Phi Phù, chủ có 3 con gái. Tử Tôn cung gặp Tứ Thần, Địa Ất, chủ có 2 con gái. Tử tôn cung lạc Không, chủ con cháu thương yểu, con vợ lẻ, con thừa tự, tàn tật, điên cuồng, bất tài bất nhân.

10. Cát hung tài bạch cung

Tài bạch cung gặp cát tinh, tiền tài đủ đầy; gặp hung tinh tán tài ít tụ. Tài bạch cung lạc Không, chủ gia sản tiêu điều, tài phú thất tán, đạo tặc cướp bóc, li hương (?) bắt cóc, hoạ nạn bất ngờ, lục súc tổn hại.

11. Cát hung điền trạch cung

Điền trạch cung gặp cát tinh, thừa hưởng nhiều tổ nghiệp; gặp hung tinh, không có tổ nghiệp, bạch thủ thành gia, tha hương. Điền trạch cung lạc Không, ăn nhờ ở đậu, nhà tranh vách đất, rào thủng tường đổ, lửa đốt thuỷ dìm, tranh đoạt, hoang tàn.

12. Cát hung quan lộc cung

Quan lộc cung gặp cát tinh, vinh hoa hiển đạt; gặp hung tinh tiến thối đều dở. Quan lộc cung lạc Không, chủ hồ giả hổ uy, có tiếng mà không có miếng, xảo ngôn xảo ngữ, giáng cách chức đến nơi xa xôi.

13. Nô bộc cung

Nô bộc cung gặp cát tinh, chủ được nô bộc hỗ trợ; gặp hung tinh không được nô bộc hỗ trợ. Nô bộc cung lạc Không, chủ bệnh, chết, thương tổn, thất bại, cưỡng hiếp, làm nhục, tai hoạ liên miên, điên đảo lẫn lộn.

14. Tất ách cung

Tật ách cung gặp cát tinh, chủ một đời ít bệnh; gặp hung tinh chủ bệnh tật quấn thân. Tật ách cung lạc Không, chủ hư nhược cực khổ, miệng mắt lệch lạc, tay chân tê cóng, nhiều sẹo, nhiều nốt ruồi, dễ bị phong hàn, si câm điếc hủi, sáu ngón, sứt môi.

16. Phúc đức cung

Phúc đức cung gặp cát tinh, một đời hưởng phúc; gặp hung tinh, khổ cực bạc phúc. Phúc đức cung lạc Không, chủ tăng ni đạo sĩ, ngũ thuật, lang thang, canh cửa, ẩn cư nhàn tản, tiêu dao lánh đời, dựa dẫm quý nhân.

17. Cát hung tướng mạo cung

Tướng mạo cung gặp cát tinh, chủ tướng mạo uy nghiêm, ung dung, tao nhã, tú mỹ; gặp hung tinh chủ xấu xí, lụm cụm, lam lũ. Tướng mạo cung lạc Không, chủ ăn không nói có, mặt mũi phá xấu, gầy guộc, thấp bé, nhiều lo, thiệt thòi, cả đời gian khó.

18. Phụ mẫu cung

Phụ mẫu cung gặp cát tinh, cha mẹ đầy đủ, không mất sớm; gặp hung tinh chủ cha mẹ mất sớm hoặc mẹ mất khi sinh. Phụ mẫu cung gặp Tứ Thần, Thiên Ất, Địa Ất, Phi Phù, nhất định chủ cha mẹ mất sớm, hoặc chủ li biệt, làm con thừa tự, hoặc có mẹ kế. Phụ mẫu cung gặp Tiểu Du, Văn Xương, Kế Thần, Tam Cơ, Ngũ Phúc, chủ hổ phụ sinh hổ tử, cha con đều hiển đạt. Phụ mẫu cung gặp Tứ Thần, hung tinh và Thuỷ Kích, chủ tổ nghiệp hao tổn, cả đời cô khổ. Phụ mẫu cung lạc Không, chủ cha mẹ mất sớm, bất lợi cho lục thân, làm con thừa tự hoặc con nuôi khác họ, tha hương, gian trá tà nguỵ, gian xảo bất minh.
buiquangchinh77 | Đăng ngày 3/12/2020

Các tin cùng Danh mục
Ngày đăng
Bát Tự Tin Tức Thủ Tượng - Diêu Á Phong.
3/12/2020
Lý Pháp - Tượng Pháp - Kĩ Pháp và Lý Khí Tượng Số Manh Phái Đoàn Thị.
3/12/2020
Tử Bình Tạp Lục. Bát Tự Cửu Cung Phi Tinh Quyết.
3/12/2020
Manh Phái Trấn Sơn Chi Bảo - Xuyên Cung Áp Vận Đoán Mệnh Thuật.
3/12/2020
Manh Phái Sơ Cấp Mệnh Lý Học - Minh Di Đường.
3/12/2020


Bạn chưa đăng nhập


ĐĂNG NHẬP - ĐĂNG KÝ THÀNH VIÊN

Gmail: [email protected]

Facebook: https://www.facebook.com/buiquangchinh77

Fanpage: https://www.facebook.com/Tutruthienmenh.com.BuiQuangChinh/          

Blog: https://giaimabiansomenh.blogspot.com/

Địa chỉ: 87 - Lý Tự Trọng - TP Vinh - Nghệ An. Hotline: 0812.373.789 hoặc 09.68.68.29.28 (Thầy Bùi Quang Chính)

Facebook chat