Xuyên Cung Áp Vận - Phần 2 (Các ví dụ có giải) ----- Vào tháng tư năm 2006, trong lớp học tại Bồng Lai Phần Sơn Đông, học viên Đổng Hải Ba dùng bát tự của bản thân để kiểm nghiệm vận trình hai năm Giáp Thân và Ất Dậu. Càn tạo: Lục Hợp Nhâm Tý, Quan Phù thai nguyên: Đại Hao Giáp Thìn Bạch Hổ Quan Phù Quý Sửu Tiểu Hao mệnh cục: Lục Hợp Nhâm Tý Quan Phù Đại Hao Giáp Thìn Bạch Hổ thân cung: Quý Thần Bính Ngọ Điều Khách Tang Môn Mậu Thìn Bạch Hổ Đại vận: Quý Thần Bính Thìn Bạch Hổ Năm giáp Thân vận trình: Mười Hai thần trong đại vận là căn bản của một năm. Quý Thần che Bạch Hổ, Hổ vốn là hung tinh mạnh nhất, lão hổ không nên bị kỵ, kỵ thì phản sẽ càng hung. Năm này gia đình có người phạm huyết quang. Thời chi Thìn thổ lâm Thiên Tài là Bạch Hổ tất ứng nghiệm cha gặp huyết quang. Thời trụ còn là mùa đông nên mùa đông sẽ là ứng kỳ. Chi là một nửa cuối của mùa đông, nên sẽ ứng nghiệm vào nửa cuối tháng mười một và tháng mười hai. (Phản hồi: thật đúng! Cha tôi vào tháng mười hai bị tai nạn xe cộ.) Nhật chi lâm Bạch Hổ. Nhật chi là cung phối ngẫu, là nửa cuối tháng tám và tháng chín sẽ gặp huyết quang. (Phản hồi: người yêu bị lưu sản). Năm này Lục Hợp, Quan Phù hành vận, tất có hỷ sự. (Phản hồi: Tôi kết hôn). Tang môn Nhâm Tý lục Hợp Lục hợp Quý Sửu quan Phù Tiểu hao Giáp Thìn chu tước Thanh long Mậu Thìn chu tước Thai nguyên: Tiểu hao Giáp Thìn chu tước. Mệnh cung: Tang môn Nhâm Tý lục hợp Thân cung: Bạch hổ Bính Ngọ quý thần Đại Vận: Bạch hổ Bính Thìn chu tước Vận trình năm Ất Dậu: Mười hai thần nhập đại vận là căn bản của một năm. Bạch Hổ gặp Chu Tước tất sẽ gặp quan phi kiện tụng. Mùa đông là hành vận Thanh Long nên có thể giải. (Phản hồi: Đúng! Là cha của tôi có kiện cáo từ hồi năm ngoái, mùa đông năm nay mới có thể giải quyết).
Càn Tạo: Quý thần Nhâm Ngọ quan phù Quý Thần Nhâm Dần Thái Tuế Thái Tuế Giáp Ngọ Quan Phù Quý Thần Nhâm Thân Đại Hao Thai nguyên: Điếu khách Quý Tỵ lục Hợp Mệnh cung: Quan phù Đinh Mùi tiểu hao Thân cung: Chu tước Tân Hợi quý thần Đại vận: Bạch hổ Mậu Thân đại hao Người này vào năm 1997 nhờ xem vận trình, sau đó đến tháng Giêng năm 1999 quay lại cho phản hồi, đồng thời tiếp tục nhờ xem hậu vận. Vận Trình năm Mậu Dần: Mười hai thần nhập đại vận là căn bản của một năm. Bạch Hổ cùng Đại Hao phá tài không nói, lại thêm lao lực mà không ích gì, cũng có thể là gánh tội cho người khác. Đại vận có Đại Hao là tiêu chí phá tài, vậy thử xem nguyên do phá tài là gì. Đại Hao Thân hợp trói Lục Hợp Tỵ hoả là hợp tác phá tài, Lục Hợp Không Vong tức ứng với tiểu nhân, Tỵ hoả trụ là thân người không cao, mà giọng nói có âm vực cao, tính tình gấp gáp, người khá cường tráng, mặt chữ điền hồng hào; là dương hoả lại thêm Nhật Can là dương gặp dương nên chắc chắn là một người nam. Mãn bàn gặp Quý Thần chắc chắn gặp quý nhân tương trợ, lại Thái Tuế trì thân phối hợp Quan Phù là cát tượng. Thái Tuế tức lãnh đạo, Quan Phù là công tác, sự nghiệp, tài vận. Niêm trụ lại có Quý Thần phối với Quan Phù, lại có Quý Thần vượng tướng. Chắc chắn là tượng nhờ Quý Nhân tương trợ mà phát tài. Nhâm thuỷ là vóc người trung bình (căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương mà tính thì vóc người trung bình là từ 1m73 đến 1m75), sắc mặt trắng, mắt to, nhãn thần phiêu hốt bất định. Phản hồi: năm này cùng cha vợ hợp tác làm ăn. Người cha vợ này có tướng mạo phù hợp với phán đoán, lừa đương số một cú nghiêm trọng, tốn hao không ít tiền, nhưng có một người bạn có tướng mạo như phán đoán, giúp đương số giải quyết thủ tục giải thể công ty. Để dễ dàng cho độc giả phán đoán tướng mạo, phía dưới công khai đặc trưng tướng mạo của mười thiên can và mười hai địa chi. Giáp: cao lớn cường tráng, thân hình cương trực, uy võ ổn trọng, lão thành lão luyện. Ất: tuy cao nhưng gầy, người không cứng mà mềm, eo nhỏ, làm người nhu nhược. Bính: chiều cao trung bình, cường tráng, sắc mặt hồng hào, lưỡng huyền cao (xương gò má cao), ngoài cứng trong mềm. Đinh: chiều cao trung bình, thân người mảnh mai, mặt bầu, mong manh. Mậu: chiều cao trung bình khá, thân thể tráng kiện, mặt có sắc vàng, ổn trọng lão thành. Kỷ: chiều cao trung bình thấp, mặt trủng, nhanh nhẹn tháo vát. Canh: người cao, tráng kiện, mặt có sắc trắng, chân đi hình chữ bát, thẳng thắn thành thật. Tân: người cao nhưng ốm, mặt trái xoan, ngoài mềm trong cứng. Nhâm: chiều cao trung bình, mặt có sắc trắng, mắt to, nhãn thần phiêu hốt bất định. Quý: chiều cao trung bình, mặt trái xoan nhưng có sắc đen, vai rộng, chân đi hình chữ bát. Đặc trưng tướng mạo của mười hai địa chi: Tý: chiều cao trung bình khá, hơi mập, mặt có sắc đen, cũng có thể có nhiều màu sắc, gò má cao, eo to. Sửu: thấp bé, mặt hẹp, mặt có sẹo màu vàng. Dần: người cao to hùng vĩ, thân kiện thể tráng, tướng đi chữ bát, vai rộng. Mão: thân người trung bình, người mảnh mai, chân thon, giữa hai chân có khoảng trống rộng. Thìn: người cao to hùng vĩ, mặt có sắc vàng, mặt có nhiều nếp nhăn, chân đi chữ bát. Tỵ: thấp bé, mặt có sắc hồng, mặt có hình trên nhỏ dưới to, cằm vuông. Ngọ: cao mà ốm, mặt trái xoan, vai rộng, dáng đi chữ bát, mặt có nhiều nếp nhăn. Mùi: ốm mà cao, mặt trái xoan, gò má cao. Thân: người cao to hùng vĩ, mặt hình oval, trán nhô. Dậu: thấp mà mập, mặt chữ điền. Tuất: người cao to hùng tráng, mặt có nhiều nếp nhăn hoặc sẹo, bước chân hình chữ bát. Hợi: cao mà gầy, eo thon cổ cao, bước chân chữ bát, mặt có sắc đen nhiều nếp nhăn hoặc sẹo. Phía trên ghi lại đặc trưng tướng mạo của mười thiên can và mười hai địa chi, chứ không chỉ bản thân mệnh chủ, tức là chỉ tướng mạo của quý nhân và tiểu nhân, cũng là chỉ địa chi của lưu niên căn cứ theo mệnh cục mà khởi Thái Tuế gặp “quý nhân tinh” và “tiểu nhân tinh” có đặc trưng tướng mạo như thế nào. Lại căn cứ mối quan hệ âm dương của nhật can cùng “quý nhân tinh” và “tiểu nhân tinh” mà xác định giới tính của quý nhân hoặc tiểu nhân, nếu cùng âm hoặc cùng dương thì cùng giới tính với mệnh chủ, âm dương khác biệt tức khác giới tính với mệnh chủ. Khẩu quyết đoán lưu niên “xuyên cung áp vận” thực là bí mật bất truyền trong thực chiến ứng dụng luận đoán, là đường tắt trong các đường tắt trong mệnh lý học, hi vọng độc giả nghiên cứu và lí giải kĩ lưỡng. Phía dưới tôi sẽ luận giải công khai mười cục lưu niên để tiện cho độc giả dễ dàng nghiên cứu lí giải.
Càn tạo: Quý Mùi - Ất Sửu - Ất Mùi – Mậu Dần Thai nguyên: Bính Thìn Mệnh cung: Giáp Dần Thân cung: Bính Thìn Đại vận: 9 Giáp Tý, 19 Quý Hợi, 29 Nhâm Tuất, 39 Tân Dậu, 49 Canh Thân, 59 Kỷ Mùi. Năm 1999 Kỷ Mão, hành vận Canh Thân. Đại vận Canh Thân Tiểu Hao gặp Tiểu Hao, tất nhiên là phá tài nhưng … (?) Thai mệnh thân là ngã cung. Thai nguyên Bính Thìn, Tang môn cái Thanh Long chủ tiểu nhân đương lệnh, nhũng nhiễu gây nhiều phiền não, là văn thư động mà dẫn phát phiền não. Mệnh cung Giáp Dần Bệnh Phù cái Bệnh Phù tức là bệnh tật liên miên, mộc là bệnh ở tứ chi, gan, mật và thần kinh. Thân cung Bính Thìn và thai nguyên luận giống nhau. Mùa xuân hành Quý Mùi, Quý Thần cái Quan Phù, tài vận khá tốt, có quý nhân giúp đỡ, nhưng có thất thoát một ít tiền bạc. Mùa hạ hành Ất Sửu, Thái Tuế cái Điếu Khách, là Thái Tuế phối hung tinh chắc chắn sẽ có thị phi. Thái Tuế là cấp trên, lãnh đạo; tức là lãnh đạo mọi nơi, nhiều kiểu gây rắc rối phiền phức cho mình. Mùa thu Ất Mùi, Thái Tuế cái Quan Phù, là trung tinh tương phối, không phải đại hung cũng không phải đại cát. Quan Phù là công tác, là tài vận, bị cấp trên chèn áp hao tài. Năm 2000 Canh Thìn, hành vận Canh Thân. Đại vận hành Canh Thân, Quan Phù phối Quan Phù, về phương diện công tác không cát lợi. Thai nguyên, thân cung Bính Thìn, Thanh Long tiến Thái Tuế không cát, lãnh đạo tất sẽ ngấm ngầm đàn áp. Mệnh cung Giáp Dần, là Điếu Khách gặp Điếu Khách, tất sẽ gặp việc lo lắng, phiền nhiễu luôn luôn. Mùa xuân hành Quý Mùi là Bạch Hổ cái Lục Hợp, tất sẽ gặp tiểu nhân, khẩu thiệt, thị phi, hoặc phải chịu oan ức cho người khác. Mùa hạ hành Ất Sửu là Bệnh Phù cái Quý Thần, tất sẽ bị bệnh tật về liên quan tì vị. Mùa thu hành Ất Mùi lại là Bệnh Phù cái Lục Hợp chắc chắn bị bệnh. Mùa đông hành Mậu Tuất Đại Hao cái Điếu Khách, có thể gặp tang chế. Năm 2001 Tân Tỵ, hành vận Canh Thân. Đại vận Canh Thân, Lục Hợp phối Lục Hợp, hành vận có khởi sắc, tất có quý nhân đề bạt, tài vận tốt. Thai nguyên, thân cung Bính Thìn là Thái Tuế phối Bệnh phù thì mắc bệnh. Mệnh cung Giáp Dần là Quý thần phối Quý Thần, nên niên này gặp quý nhân liên tiếp. Mùa xuân hành Quý Mùi là Chu Tước cái Tang Môn, tất có nạn quyết quang. Mùa hạ hành Ất Sửu là Điếu Khách cái Bạch Hổ, tất có khẩu thiệt thị phi quấn thân. Mua thu hành Ất Mùi, là Điếu Khách cái Tang Môn, tất có tang chế. Mùa đông hành Mậu Dần, là tiểu Hao cái Quý Thần, người này muốn cầu quý nhân nhưng tìm không thấy, bị phá tài hao của, tốn công vô ích.
Khôn tạo: Bính Ngọ - Canh Dần – Canh Tý – Bính Tý Thai nguyên: Tân Tỵ Mệnh cung: Tân Mão Thân cung: Tân Mão Đại vận: Bính Tuất. Niên: Bính Tuất. Mệnh này Thìn Tỵ không vong. Thai nguyên Tỵ hoả, thì thiên can Tân kim liền với không vong. Người tuổi Bính là theo chủ mà vong, đồng thời hai cung thân mệnh là Tân kim theo thai nguyên Tân kim mà không vong. Thai thân mệnh đều phạm không vong thì thuộc loại người “thanh đăng bạn tại cổ Phật”, mà phu tinh phạm không vong cũng giống như có mà cũng như không, duy nhất một phu tinh Ngọ hoả lại hợp với Dần mộc, hơi nữa phối ngẫu phục ngâm cũng là tiêu chí hung tai. Ba Tân liền nhau Không Vong chủ luận hôn nhân không tốt. Người mệnh Bính gặp năm Bính vận Bính là ba bính liền kề cũng chủ hung. Thân nhược Sát vượng (đắc lệnh), lại hành Sát vận thành ra hôn nhất tất sẽ xấu. Lưu niên Bính Tuất, Thất Sát vận là tuế vận cùng gặp, là hung. Chủ yếu đoán năm Bính Mậu tất có nạn hôn nhân. Phía trên ghi lại lời tác giả đoán mệnh ngay tại hiện trường, đoán nạn hôn nhân. Phía dưới đây sẽ phân tinh tỉ mỉ, hi vọng độc giả từ đó có thể thấy sự tinh diệu của thuật “xuyên cung áp mệnh”
Khôn tạo: Chu tước Bính Ngọ bạch hổ thai nguyên; Bệnh phù Tân Tỵ Chu tước đại vận; Điếu khách Canh Dần quan phù mệnh cung; Bệnh phù tân Mão tiểu hao; Chu tước Bính Tuất thái tuế; Điếu khách Canh Tý tang môn thân cung; Bệnh Phù Tân Mão tiểu hao lưu niên; Chu tước Bính Tuất thái tuế; Chu tước Bính Tý tang môn. Hỏi: Ngài có thể xem ra trong chúng tôi ai là người đề nghị li hôn? Chu tước lâm thái tuế, tất là chồng của cô trước tiên đề nghị li hôn. Phản hồi: Chính xác. Hỏi: Ngài xem là nguyên do gì mà li hôn? Phu tinh Ngọ hoả đắc tam hợp nên chắc chắn là cùng người khác ngoại tình, lại là cùng một người thuộc loài hổ. Nguyệt là bên nữ theo đuổi bên nam (Dần sinh hợp Ngọ hoả). Làm việc tại tây bắc (Tuất), nhà tại đông bắc (Dần). (Ngài làm sao có thể biết từng chi tiết nhỏ như vậy! Một điểm cũng không sai!) Hỏi: Ngài xem họ khi nào thì bắt đầu ngoại tình? Vào mùa xuân năm nay, ngay tháng Giêng. (Thật đúng quá!) Mùa xuân Bính Ngọ, hành vận chu tước bạch hổ, hai vợ chồng cô bắt đầu mâu thuẫn, vẫn cãi cọ không dứt. Chồng cô vì một chuyện nhỏ lại quát tháo cô, lại còn đánh cô. Cô vì vậy mà tức giận sinh bệnh (bệnh phù tại thai thân), tâm phiền ý loạn, trong lòng buồn bực (điếu khách trì nhật chủ), lúc nào cũng phải nhẫn nhịn (Chị cô này đáp lời: Quá chính xác rồi! Xem em tôi bây giờ thành ra bộ dạng này!) Hỏi: Ngài xem khi nào thì thích hợp để tôi đưa vụ việc ra toà? Mùa hạ hành quan phù tinh (Quan phù là sao trung tính, gặp cát thì cát, gặp hung thì hung), lại gặp điếu khách, không phải thích hợp hay không thích hợp mà là chắc chắn sẽ đưa đơn ra toà, đúng vào khoảng giữa mùa hạ và mùa thu, khoảng tháng tư (dương lịch). Vào thời gian này vợ chồng cô sẽ ra toà, đây là trong mệnh đã định. Cụ thể thời gian nên vào nửa cuối tháng năm đến tháng sáu thì chính thức ra toà phân xử. (Thực tế: kết quả này một điểm cũng không sai. Tình hình hình thực tế phù hợp với kết quả đoán). Trong tay có kĩ thuật xuyên cung áp vận thì cũng như đã hiểu rõ lưu niên như nắm trong lòng bàn tay.
Ví dụ: Nam mệnh Tang môn Nhâm Tý lục hợp Thanh long Mậu Thân bệnh phù Bạch hổ Bính Tuất thanh long Lục hợp Quý Tỵ bạch hổ Thai nguyên: Quan phù Kỷ Hợi tang môn Mệnh cung: Tiểu hao Giáp Thìn chu tước Thân cung: Tang môn Nhâm Dần tiểu hao Lấy năm Ất Dậu làm ví dụ: Địa chi lưu niên là thái tuế, sau đó tiếp theo Tuất sẽ là thanh long. Hợi là tang môn, Tý là lục hợp, Sửu là quan phù, Dần là tiểu hao, Mão là đại hao, Thìn là chu tước, Tỵ là bạch hổ, Ngọ là quý thần, Mùi là điếu khách, Thân là bệnh phù. Lại đem mười hai địa chi đối ứng với mệnh cục, thai, mệnh, thân, đại vận đều an mười hai thận gọi là nhập toạ, sau đó mới tiến hành phân tích. Trường phái đoán mệnh Xuyên cung áp vận Manh Phái Tô Quốc Thánh. Năm: Ví dụ phương pháp vận dụng. 1. Tháng tư, năm 2006, trong lúc đứng lớp tại Sơn Đông Bồng Lai, Đổng Hải Ba lấy bát tự bản thân xin nhờ xem vận trình hai năm Giáp Thân và Ất Dậu. Càn tạo: Nhâm Tý – Quý Sửu – Giáp thìn – Mậu Thìn (1) Năm Giáp Thân Lục hợp Nhâm Tý quan phù Quan phù Quý Sửu tiểu hao Đại hao Giáp Thìn bạch hổ Tang môn Mậu Thìn bạch hổ Đại vận: điếu khách Bính Thìn bạch hổ Thai nguyên: đại hao Giáp Thìn bạch hổ Mệnh cung: lục hợp Nhâm Tý quan phù Thân cung: quý thần Bính Ngọ điếu khách Phân tích: Đại vận là căn bản của một năm. Điếu khách cái bạch hổ chủ trong gia đình có người phạm huyết quan tai ương. Thời chi Thìn thổ lâm Thiên Tài là bạch hổ, tức là cha gặp huyết quan. Thời chi là mùa đông, tức là mùa đông ứng kì. Chi thì ứng với nửa cuối mùa đông, tức ứng vào nửa cuối tháng mười một hoặc tháng mười hai. (Phản hồi: thật đúng quá. Cha tôi vào tháng mười hai bị tai nạn xe cộ.) Nhật chi lâm bạch hổ, nhật chi là cung phối ngẫu, cũng là nửa cuối tháng tám hoặc tháng chín sẽ thấy huyết quang. (Phản hồi: vợ tôi bị lưu sản.) Năm này hành vận lục hợp, quan phù, chắc chắn là có hỷ sự. (Phản hồi: tôi đã kết hôn.) (2) Năm Ất Dậu Tang môn Nhâm Tý lục hợp Lục hợp Quý Sửu quan phù Tiểu hao Giáp Thìn chu tước Thanh long Mậu Thìn chu tước Đại vận: bạch hổ Bính Thìn chu tước Thai nguyên: tiểu hao Giáp Thìn chu tước Mệnh cung: tang môn Nhâm Tý lục hợp Thân cung: bạch hổ Bính Ngọ quý thần Đại vận là căn bản của một năm. Bạch hổ gặp chu tước, tất sẽ có quan phi phiền nhiều. Mùa đông là phương thanh long có thể giải hạn. (Phản hồi: đúng! Cha tôi nửa nửa năm đầu kiện tụng, đến mùa đông thì giải quyết.) 2. Người này nhờ xem vận trình năm 98. Quý thần Nhâm Ngọ quan phù Quý thần Nhâm Dần thái tuế Tái tuế Giáp Ngọ quan phù Quý thần Nhâm Thân Đại hao Đại vận: chu tước Mậu Thân đại hao Thai nguyên: điếu khách Quý Tỵ lục hợp Mệnh cung: quan phù Đinh Mùi tiểu hao Thân cung: bạch hổ Tân Hợi quý thần Đại vận chu tước gặp đại hao, phá tài tổn lực mà không được gì, lại còn có thể vì người mà mắc oan. Mười hai thần của đại vận là đại hao chính là tiêu chí phá tài, đại hao Thân hợp thai nguyên Tỵ hoả lục hợp là vì hợp tác mà phá tài. Lục hợp không vong tức là bị tiểu nhân hãm hại. Tuy nhiên toàn bàn quý nhân, nên sẽ có quý nhân giúp đỡ, lại thêm nhật trụ có thái tuế lâm quan phù là tượng tốt. Thái tuế là lãnh đạo, quan phù là công tác, sự nghiệp, tài vận. Niên trụ lại đắc quý thần lâm quan phù, mà quý thần lại vượng tướng, nhất định là được quý nhân giúp đỡ mà phát tài. Phản hồi: năm này cùng cha vợ hợp tác, lại bị cha vợ lừa, bị hao tài không ít. Nhưng được bạn bè giúp đỡ thủ tục thoái vốn công ty.
3. Năm 2006 xem một mệnh nữ (1) Đoán ly hôn ngay tại hiện trường. Khôn tạo: Bính Ngọ - Canh Dần – Canh Tý – Bính Tý Thai nguyên: Tân Tỵ Mệnh cung: Tân Mão Thân cung: Tân Mão Đại vận: Bính Tuất Lưu niên: Bính Tuất Người này mệnh Thìn Tỵ không vong. Thai nguyên Tỵ hoả không vong tức là thiên can Tân kim cũng liên đới mà không vong. Bính hoả cũng tuỳ theo mà không vong. Đồng thời hai cung thân mệnh có Tân kim đều tuỳ thai nguyên Tân kim mà không vong. Thai thân mệnh không vong thì đều là “thanh đăng bạn cổ Phật”. Mà phu tinh không vong thì có chồng cũng như không có. Duy nhất phu tinh Ngọ hoả cùng Dần mộc tương hợp, mà phối ngẫu cung lại bị phục ngâm là tiêu chí có nạn hôn nhân. Ba Tân tương liên chủ là hôn nhân không tốt. Đại vận và tứ trụ có ba Bính tương liên, cũng chủ không cát lợi. a. Thân nhược Sát vượng lại hành Sát vận thì hôn nhân tất nhiên không tốt. Lưu niên Bính Tuất, vận Thất Sát, tuế vận cùng lâm là hung, cho nên đoán là năm này li hôn. Ba Bính thì về già cô đơn, hoặc mẹ qua đời khi đang lâm bồn. Ba Tân khá trường thọ, tiền tài trì trệ, hôn nhân lận đận. Xuyên cung phê đoán Khôn tạo: Quý Mùi - Ất Sửu - Ất Mùi – Mậu Dần Thai nguyên: Bính Thìn. Mệnh cung: Giáp Dần Thân cung: Bính Thìn Đại vận: 9 Giáp Tý, 19 Quý Hợi, 29 Nhâm Tuất, 39 Tân Dậu, 49 Canh Thìn, 59 Kỷ Mùi (1) Năm 1999 Kỷ Mão, hành vận Canh Thân Đại vận Canh Thân tiểu hao gặp tiểu hao, sẽ có phá tài nhưng không nhiều, tài vận không tốt. Thai mệnh thân là ngã cung. Thai nguyên Bính Thìn, tang môn cái thanh long, chủ là tiểu nhân đương lệnh quấy phá, nhiều phiền não, vì văn thư giấy tờ động mà gây ra phiền não. Mệnh cung Giáp Dần, bệnh phù cái bệnh phù, tất bản thân có bệnh quấn thân, mộc là gan mật, tứ chi và thần kinh. Thân cung Bính Thìn luận giống thai nguyên. Mùa xuân hành Quý Mùi, quý thần cái tiểu hao, tài vận khá tốt, được quý nhân giúp đỡ nhưng có phá tài nhỏ. Mùa hạ hành Ất Sửu, thái tuế cái điếu khách, vì thái tuế phối hung tinh nên nhất định có mâu thuẫn, tranh cãi. Thái tuế là sếp trên, là lãnh đạo, tức là lãnh đạo gây khó khăn cho ta. Mùa thu hành Ất Mùi, thái tuế cái quan phù, là trung tính tương phối, không quá xấu cũng không quá tốt. Quan phù là công tác và tài vận, bị sếp trên chèn ép mà hao tài. Mùa đồng hành Mậu Dần, bạch hổ cái bệnh phù, tức là bệnh tật. (2) Năm 2000 Canh Thìn, hành vận Canh Thân. Đại vận Canh Thân, quan phù phối quan phù, tức là về mặt công việc không có lợi. Thai nguyên, thân cung Bính Thìn, thanh long cái thái tuế mà không cát. Lãnh đạo ngấm ngầm chèn ép. Mệnh cung Giáp Thân là điếu khách gặp điếu khách, thất là có sự ưu sầu, tâm không yên. Mùa xuân hành Quý Mùi, là chu tước cái lục hợp, thì có tiểu nhân hại hoặc khẩu thiệt thị phi, hoặc là chịu oan giùm người. Mùa hạ Ất Sửu, bệnh phù cái quý thần, ưu sầu, có bệnh tì vị. Mùa thu hành Ất Mùi, lục hợp cái bệnh phù, lo lắng vì bệnh tật. Mùa đông hành Mậu Dần, đại hao cái điếu khách, có việc tang chế phát sinh. (3) Năm 2001 Tân Tỵ, hành vận Canh Thân. Đại vận Canh THân, lục hợp phối lục hợp, hành vận khởi sắc, tất sẽ có nhiều quý nhân phù trợ và tài vận tốt. Thai nguyên, thân cung Bính Thìn, thái tuế phối bệnh phù, có lo lắng về sức khoẻ. Mệnh cung Giáp Dần, quý thần phối quý thần, năm này nhiều quý nhân. Mùa xuân hành Quý Mùi, bạch hổ cái tang môn, tất có huyết quang. Mùa hạ hành Ất Sửu, điếu khách cái chu tước, tất co khẩu thiệt thị phi. Mùa thu hành Ất Mùi, điếu khách cái tang môn, tất có việc tang chế. Mùa đông hành Mậu Dần, tiểu hao cái quý thần, ví cầu quý nhân giúp đỡ mà khổ cực, lại phá tài. Việc nghiên cứu và ứng dục mệnh lý, bản thân tôi có nhận xét như sau: nên trăm hoa đua nở, trăm nhà tranh tiếng. Không cần quan tâm nhà nào phái nài, chỉ xem lí luận có chỗ hợp lý hay không. Chúng ta không nên công kích lẫn nhau, cần thực hiện hậu đức tải vật, đức hậu vô cương. Như theo lời của ông Đặng Tiểu Bình thì: không cần biết là mèo đen hay mèo trắng, chỉ cần bắt được chuột thì là mèo giỏi. Thực tiễn luôn là phương pháp kiểm nghiệm mệnh lý xuất sắc. Chúng ta cần thông qua thực tiễn, dựa trên dịch lý, biểu đạt linh tính, đề cao sự khác biệt, đột phá những giới hạn cũ, đẩy ngã những giới hạn của bản thân. Trên con đường ứng dụng bát tự mệnh lý, tôi luôn giữ thái độ: “dịch học duy chân” (chỉ có dịch học là chân lý), tiếp nhận cái hay của những trường phái khác mà sử dụng, mà không quan tâm đến đó là từ người nào hoặc phái nào. Luôn luôn nổ lực để thực hiện được phương châm: pháp vô định pháp, ngộ đáo là pháp. (Pháp thì không cố định, chỉ cần mình ngộ ra được thì đã là pháp) |