Cuộc di cư lịch sử của dạng sống tuệ linh và
dạng sống con người xuất hiện
Để tạo được môi trường sinh sống và tu luyện
cải tạo luyện trụ linh của các tuệ linh thành bộ lọc năng lượng, người cha vĩ
đại sẽ phải tìm một hành tinh có chứa đựng đầy đủ các điều kiện khắc nghiệt
nhất. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên, khắc nghiệt trong đấu tranh sinh tồn, sự
phức tạp hóa trong cuộc sống và cuộc sống không có gì ngoài khổ đau. Bởi cõi
trời của ngài đã quá nhiệm màu và thanh tịnh từ vạn vật đến các tuệ linh. Điều
đó đã làm cho các tuệ linh không thể luyện được trụ linh có khả năng hấp thụ được
năng lượng của khổ đau, năng lượng hoại diệt, để chuyển hóa thành năng lượng
tốt. Chính vì thế chỉ có tạo ra một môi trường sống ngược lại với sự thanh tịnh
và nhiệm màu, đó là không có gì ngoài khổ và sự khắc nghiệt cùng cực thì mới
khiến cho các tuệ linh tu luyện cải tạo trụ linh thành công.
Để
thực hiện được kế hoạch 1 - kế hoạch xây dựng nhân loại. Ngài đã gieo vô số
phôi năng lượng âm dương, phôi âm dương chính là duyên. Ngài gieo duyên đến
khắp các hành tinh trong vũ trụ để tìm ra hành tinh có đủ điều kiện sống khắc
nghiệt mà vẫn duy trì được sự sống cho các tuệ linh. Ngài đã tìm ra được hành
tinh phù hợp đó là trái đất. Tại sao trái đất lại là điều
kiện lý tưởng để ngài xây dựng nhân loại và là môi trường tu hành cho các tuệ
linh? Bởi trái đất quay xung
quanh mặt
trời, mặt trăng quay xung quanh trái đất, các hành tinh khác cũng theo đó
mà quay xung quay nhau tạo thành quỹ đạo di chuyển có sự cân bằng về năng lượng
âm dương, đó là lực đẩy và lực hút giữa các hành tinh mà tạo ra sự duy trì cân
bằng năng lượng âm dương. Đây là điều kiện lý tưởng để các hành tinh không bị
va đập vào nhau gây hủy diệt môi trường tu hành. Quỹ đạo di chuyển của trái đất
và các hành tinh làm cho thiên nhiên trên trái
đất có sự khắc nghiệt, đó là môi trường tu hành lý tưởng nhất cho các tuệ
linh sinh sống và tu luyện.
Kế
hoạch xây dựng nhân loại làm môi trường tu hành được ngài chia ra làm 4 kế
hoạch, 4 kế hoạch này sẽ giúp cho các tuệ linh luyện được cấu trúc mã sóng trí
tuệ trong trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhất:
Kế
hoạch 1, vị Tuệ linh đầu tiên (ngài) sáng tạo và quan sát sự sống trên trái
đất:
Ngài
gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm dương để tạo ra hoạt động phun trào nham
thạch, tạo
thành núi cao và những vùng trũng khuyết, hố sâu. Ngài quan sát
quá trình thay đổi của trái đất để tạo ra nơi cao và nơi thấp.
Ngài
gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm dương đến trái đất để tạo ra các
tầng năng lượng, các tầng năng lượng di chuyển tạo ra sự tương tác phản ứng tạo
thành bầu khí quyển có oxy và các yếu tố khác. Từ đó hình thành các đám mây gây
ra mưa, nước chảy từ nơi cao xuống nơi
thấp, từ núi cao xuống nơi hố sâu, quá trình này tạo thành sông, hồ, biển. Ngài
quan sát quá trình nước mưa rơi từng hạt xuống, tụ lại và chảy về nơi thấp hơn
để kết tụ lại thành một chỉnh thể nước lớn. Ngài quan sát nước chảy từ trên cao
xuống nơi thấp mà hình thành sông ngòi, ao hồ và biển lớn.
Ngài
tiếp tục gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm dương để tạo ra thảm thực vật,
cỏ, cây. Ngài quan sát thấy cỏ cây hút nước để nuôi dưỡng và trưởng thành. Ngài
quan sát hạt mầm ngài gieo ra nảy mầm, phát triển và to lớn, ra hoa, ra quả và
hạt của quả lại rơi xuống đất và một cây con lại hình
thành.
Ngài
tiếp tục gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm dương để tạo ra các loại vi
khuẩn, vi sinh vật, côn trùng để tương tác với nước, thảm thực vật, cỏ cây để
tạo ra sự tương tác hỗ trợ cho sự sống phát triển, bước tiếp theo
là hỗ trợ cho sự sống mới ở trái đất.
Ngài
tiếp tục gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm dương để tạo ra chim muông,
ngài quan sát những con chim ăn quả chín trên cây, thả hạt vương
vãi ra xung quanh hoặc mang quả đi nơi khác ăn, rồi những hạt
cây rơi xuống, nảy
mầm và mọc thành cây, quá trình này tạo thành rừng cây. Ngài lại quan sát chim
muông ăn những thức ăn và mang hạt đi gieo sự sống khắp nơi.
Ngài
tiếp tục gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm dương để tạo ra muông thú, các
loài thú dữ, các loài thú lành, loài bò sát. Ngài quan sát những muông thú giao
phối giữa giống đực và giống cái để sinh con và phát triển loài. Ngài quan sát
từng loài sống bầy đàn với nhau, chúng không tách rời, sống xung quanh
và bảo vệ nhau trước sự tấn công của các loài khác. Ngài quan sát các loài thú
lớn đi săn, ăn
thịt những loài thú bé và yếu hơn để sinh tồn. Ngài quan sát các loài thú lành
ăn cỏ cây hoa lá để sinh tồn. Ngài quan sát trong bầy đàn muông thú sẽ có con
làm thủ lĩnh và những con khác phải thuận theo mệnh lệnh của con thủ lĩnh.
Ngài
gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm dương để tạo ra vô số loài sống dưới
nước (các
loài cá) và
trên không (chim
muông).
Ngài quan sát thấy chúng sống như những con thú trên mặt đất.
Ngài
quan sát sự tác động, tương tác của mặt trời, mặt trăng mà tạo ra gió bão, sóng
biển, thủy triều, mưa, sấm sét dẫn đến trên trái đất có khu vực thì
mưa bão, có khu vực thì lạnh giá đóng băng, có khu vực nóng và hỏa hoạn.
Ngài
quan sát thấy tất cả vạn vật từ cỏ cây, hoa lá, đến nước, muông thú đều sinh ra
và chết. Nước thì bốc hơi mà cạn kiệt, rồi hơi nước kết tụ thành mây mà gây
mưa. Muông thú không ăn thịt nhau thì do già mà hết vòng sinh tử. Cỏ cây không
bị muông thú ăn thì cũng già khô mà chết. Vạn vật không tự hoại diệt hay ăn
nhau mà chết thì sự khắc
nghiệt của thiên nhiên cũng làm cho vạn vật hoại diệt.
Quá
trình gieo duyên tạo ra sự sống phải trải qua thời gian dài để hoàn thiện môi trường
sống khắc
nghiệt, lý
tưởng, để cho các tuệ linh xuống sinh sống và tu hành. Trong quá trình gieo
duyên tạo ra sự sống, ngài đã quan sát và thấy bản chất quy luật tự nhiên của
vạn vật như sau: Đó là sự kết tụ của tính âm, là sự tỏa ra của tính
dương, là
sự cân bằng giữa thừa và thiếu, là sự cân bằng của âm và dương, là sự sinh, sự
tồn tại, sự hoại diệt, sự lan tỏa, sự đoàn kết, sự phát triển duy trì loài, sự
gieo duyên, sự xây dựng phát triển, sự phá hủy, sự thống lĩnh, sự tuân theo, sự
gieo nhân và gặt quả, sự khổ và khổ đau. Bởi
quá trình quan sát sự sống và vận hành của vạn vật đã giúp cho ngài thiết lập
giáo luật công bằng dựa trên cơ chế phân tách, chụp chiếu hạt năng lượng. Đó là
luật nhân quả. Luật nhân quả để cho vạn vật và các tuệ linh sinh sống tại trái đất phải tuân theo
để đảm bảo quá trình tu luyện cải tạo trụ linh thành bộ lọc năng lượng được
thành công.
Kế
hoạch 2, vị Tuệ linh đầu tiên đưa các tuệ linh xuống trái
đất và nhân loại được hình thành:
Sau
khi ngài đã tạo dựng được môi trường sống tại trái
đất đạt được điều kiện lý tưởng nhất. Đó là sự khắc nghiệt về điều kiện sống, về sự sinh diệt,
về khổ đau mà vẫn đảm bảo được điều kiện duy trì sự sống và cân bằng. Ngài tiếp
tục thực hiện kế hoạch thứ 2 để xây dựng loài người và nhân loại:
Ngài
gieo duyên bằng vô số các phôi năng lượng âm dương để tạo ra sự sàng lọc các
loài thú nguy hiểm đến sự tồn tại và sinh sống của các tuệ linh khi xuống nhân
gian. Đó là các thời kỳ núi lửa phun trào, thời kỳ băng hà đã làm cho nhiều
loài động vật nguy hiểm to lớn bị hoại diệt và tuyệt chủng. Chỉ còn lại những
loài động vật đủ tương tác, giúp cho các tuệ linh tránh bị hoại
diệt và vẫn
đảm bảo các điều kiện tu hành.
Ngài
phát động các tuệ linh tại cõi trời của ngài “Phát đại nguyện” thế hệ đầu tiên
xuống trái đất xây dựng nhân loại và tu hành. Khi đó, thời cơ và điều kiện đảm
bảo cuộc sống tu hành ở trái đất đã đến, đã có vô số các tuệ linh phát nguyện
tiên phong là những vị đầu tiên xuống trái đất. Tất cả các tuệ linh đã phát
nguyện xuống tu hành sẽ được một hội đồng biên bản luật được thành lập bởi vị
Tuệ linh đầu tiên, đưa ra các điều luật nhằm đảm bảo cho các tuệ linh tuân thủ
và thực hiện theo. Trong biên bản luật có một điều
mà đã được vị Tuệ linh đầu tiên thuyết cho các tuệ linh trước khi xuống trái đất là: “Các tuệ
linh sẽ phải trải qua nhiều kiếp tu hành, trải qua hết tất cả các khổ đau và
kiếp nạn, lấy kinh nghiệm đó để cải tạo trụ linh thành bộ lọc năng
lượng, khi chưa cải tạo được thì chưa được trở về”.
Vị
Tuệ linh đầu tiên đã
dùng đến sự nhiệm màu về hào quang của các tầng năng lượng mà đưa các tuệ linh xuống trái đất.
Biến
họ thành những con người có da, có thịt, có xương, có đầy đủ và hoàn chỉnh. Đây
là điều đặc biệt duy nhất chỉ có thế hệ đầu tiên của các tuệ linh xuống trái đất tu
hành thì mới được chuyển hóa thành thân tướng. Để sự chuyển hóa này
được thành công thì các tuệ linh phải dùng toàn bộ năng lượng trong chính các
tuệ linh và sự trợ giúp của vị Tuệ linh đầu tiên. Sau khi chuyển hóa thành con
người xong thì các tuệ linh không còn các pháp nhiệm màu, không thể bay hay di
chuyển trong vũ trụ được nữa, mà phải sống như những muông thú đã được tạo
trước đó, phải đi, phải leo trèo, bơi lội.
Cuộc
tập kết lịch sử khởi đầu cho sự hình thành loài người tại nhiều nơi
trên trái
đất như ven sông, ven biển, đồng bằng, trên núi, trong rừng, những nơi đó có vô
số các điểm tập kết lịch sử. Tại các điểm tập kết lịch sử đó, vị Tuệ linh đầu
tiên đã dùng quyền năng của mình để triệu tập tất cả muông thú về nghe ngài
truyền dạy về luật
nhân quả mà tất cả muông thú cùng với các tuệ linh sống tại trái đất phải tuân
theo. Tại mỗi điểm tập kết sẽ có các tuệ linh được hóa thành từng cặp vợ
chồng với hai
con nhỏ, có một con gái và một con trai. Mỗi điểm tập kết sẽ có hai đến nhiều
hộ gia đình và muông thú đến nghe ngài truyền dạy. Đây là cơ sở để loài người
hình thành các bộ lạc, bộ tộc và ngày nay là quốc gia.
Ngài
truyền dạy tại các điểm tập kết lịch sử, ngài nói với các cặp
gia đình là: “Ta
đưa các ngươi xuống đây bằng chân tâm thì về cũng phải bằng chân tâm”. Ngài nói với các cặp bố
mẹ: “Ta
giao sứ mệnh cho các ngươi phải gả con cái cho nhau để xây dựng nhân loại”. Ngài
nói với các cặp gia đình: “Các ngươi sẽ phải trải qua nhiều
kiếp, trải qua hết các khổ đau và kiếp nạn; lấy kinh nghiệm trải qua đó để cải
tạo trụ linh thành bộ lọc năng lượng, khi chưa cải tạo được thì chưa được trở
về”. Ngài
nói với các hộ gia đình và muông thú: “Ta giao cho các ngươi nhiệm vụ
thuần hóa muông thú để chúng cũng làm người và cùng xây dựng nhân
loại”. Ngài nói với tất cả các hộ gia đình và muông thú: “Ta cho các ngươi
biết, để nhanh cải tạo trụ linh thành bộ lọc năng lượng thì các ngươi hãy tìm
kiếm chân lý vạn vật và chuyển hóa giác ngộ trong khổ đau và kiếp nạn”.
Như vậy, những lời truyền
dạy của ngài là luật, là sự chỉ dẫn cho các tuệ linh sống và tu hành
tại nhân gian này tuân thủ và làm theo, để nhanh chóng hoàn thành quá trình
tu luyện cải tạo trụ linh thành bộ lọc năng lượng, để trở về nơi mà họ
đã đi. Ngài
không chỉ luôn cho tất cả muông thú và các hộ gia đình chân lý vạn vật, bởi họ
mới bắt đầu sự sống, họ phải xây dựng nhân loại. Nên họ cần thời gian để xây
dựng phát triển cuộc sống của nhân loại, cần thời gian để trải qua khổ đau kiếp
nạn mới tìm ra được chân lý vạn vật và chuyển hóa giác ngộ. Như vậy, ngài đã
thấu hiểu hết chân lý vạn vật, nhưng ngài cần các tuệ linh phải tu hành để mà
tìm ra và từ đó phải tìm thêm chân lý giác ngộ. Chân lý vạn vật chính là cơ chế
phân tách, liên kết hạt năng lượng, đã được ngài chuyển hóa thành giáo luật
nhân quả. Giáo luật này đã được ngài xây dựng hoàn thiện trong quá trình quan
sát sự vận hành của vũ trụ, quan sát quá trình vận hành sự sống của trái đất.
Ngài thấu hiểu rằng, việc thấu hiểu chân lý vạn vật mới chỉ giúp thấu hiểu căn
nguyên của vạn vật, căn nguyên của sinh diệt trong tất cả các dạng sống chứ
chưa chuyển hóa năng lượng, chưa thể tạo ra cấu trúc bộ lọc năng lượng cho tuệ
linh. Việc ngài
cần các tuệ linh không những phải thấu hiểu chân lý vạn vật, thấu hiểu luật
nhân quả mà còn phải giác ngộ được việc chuyển hóa năng lượng, đó chính là giác
ngộ được chân lý giác ngộ. Để giúp cho nhân loại tìm ra được hai chân lý, ngài
tiếp tục gieo duyên, tạo ra sự phát triển và phức tạp
hóa cuộc sống dưới nhân gian.
Kế
hoạch 3, vị Tuệ linh đầu tiên gia tăng sự phát triển và phức tạp môi trường tu
hành:
Ngài
tiếp tục đưa các tuệ linh xuống trái đất để gia tăng dân số cho dạng sống
con người. Sự đặc biệt của sự chuyển hóa từ tuệ linh thành con người chỉ được
thực hiện ở lần đầu tiên khi đưa các tuệ linh
xuống. Bắt đầu từ lần thứ hai cho đến ngày nay và về sau sẽ phải tuân thủ theo
luật luân hồi. Luật luân hồi thể hiện ở chỗ: khi các cặp vợ
chồng giao phối, tinh trùng mang sóng điện dương của người nam và trứng mang
sóng điện âm của người nữ hợp lại thành phôi thai; phôi thai phát triển trong
bụng người nữ đến khi sinh ra, thì các tuệ linh mới thiết nhập vào em bé và cất
tiếng khóc chào đời, đó chính là đánh dấu mốc tuệ linh đã thiết nhập vào; khi
tuệ linh thiết nhập vào em bé sẽ quên đi hết quá khứ, trí tuệ của tuệ linh,
quên đi mình là ai, mình phải làm gì và chết sẽ đi về đâu cũng không được biết.
Ở những thế hệ đầu tiên thì con người vẫn được mở nhãn thần nên vẫn nhìn được
về với các tuệ linh, biết mình từ đâu đến, đến đây để làm gì. Do đó con người
thời đó là sau mỗi lần thu hoạch mùa màng đã biết dâng tế với các tuệ linh và
ngài vì ngài đã giúp đỡ họ phát triển nhân loại. Mỗi một em bé được sinh ra thì
lại có một tuệ linh được xuống luân hồi hoặc linh hồn muông thú đã được thuần
hóa đầu thai vào để tu hành. Ngày nay để khai mở được nhãn thần thì con người
phải tu tập mới nhìn được các ngài và tìm hiểu được tổ tiên của loài người là
ai, do đó hiểu được tổ tiên của loài người là các tuệ linh từ dạng sống tuệ
linh hóa thân xuống chứ không phải là khỉ vượn tiến hóa thành. Thấu hiểu là do
nguyện lực để xuống đây tu luyện chứ không phải là bị đọa xuống đây.
Tại
cõi trời của dạng sống tuệ linh, sau khi các tuệ linh hóa thân xuống nhân gian
tu hành, thì các hội đồng nghiên cứu, các hội đồng tu luyện được gia tăng về số
lượng. Sự hình thành này nhằm nghiên cứu các phương pháp, sáng chế ra các công
cụ để giúp cho con người biết cách sản xuất nông nghiệp, biết cách làm nhà để
ở, biết cách đoàn kết để tổ chức thành hình thái bộ tộc, bộ lạc nhằm bảo vệ
nhau trước những bộ tộc, bộ lạc khác. Tại các hội đồng này, khi nghiên cứu
xong, các tuệ linh sẽ phải phát nguyện với ngài để luân hồi xuống nhân gian và
khi lớn lên sẽ có trí tuệ hoàn thành phát minh đó để áp dụng cho con người cải
tạo cuộc sống dưới nhân gian. Các hội đồng này tiếp tục nghiên cứu các phương
pháp, kỹ thuật thu phục muông thú, thuần hóa muông thú, thâm canh sản xuất,
phát triển nền nông nghiệp, phát triển hình thái quốc gia, phát minh ra các
công trình phát triển nền công nghiệp, y học, lý số, toán học, hóa học, du hành
không gian, hàng không, công nghệ… Mục đích là giúp dạng sống nhân loại ở trái đất ngày càng phát
triển và làm cho mức độ tu hành không ngừng được nâng cao.
Ngài
sẽ phân ra hai trường hợp để cho các tuệ linh xuống trái đất luân hồi, nhằm
tạo ra sự phức tạp cho quá trình tu luyện. Bởi chỉ có phức tạp, đầy rẫy khổ đau
mới đẩy các tuệ linh đã đầu thai xuống nhân gian vào con đường tìm tòi, nghiên
cứu và tìm ra con đường giải thoát các khổ đau đó. Trường hợp luân hồi xuống để
tu hành và cải tạo bộ lọc cho trụ linh sẽ phải sống luân hồi trong nhiều kiếp,
phải trải qua hết các khổ đau và kiếp nạn, khi nào hoàn thành cải tạo được trụ
linh mới được trở về. Trường hợp thứ 2 là các tuệ linh ở các hội đồng nghiên
cứu những phương
pháp trợ giúp con người, gia tăng sự phát triển nhân loại, gia tăng mức độ phức
tạp cho môi trường tu hành, thì chỉ cần xuống một kiếp, truyền
lại được những phát minh, công trình nghiên cứu đó cho con người áp dụng, ứng
dụng vào cuộc sống dưới nhân gian thì sẽ được trở về luôn mà không phải luân
hồi trong nhiều kiếp.
Vị
Tuệ linh đầu tiên đã tạo ra cuộc sống ở trái đất ngày càng phát
triển, khoa học kỹ thuật không ngừng tìm hiểu sự sống ngoài trái đất. Hình thái
cuộc sống từ bộ tộc, bộ lạc đã chuyển thành quốc gia và hướng đến sự thống
nhất của toàn thế giới như việc hình thành các tổ chức liên minh đoàn kết của nhiều
quốc gia và thế giới. Mức độ phức tạp nhiều giai đoạn được đẩy mạnh thành các
cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc, bộ lạc, giữa các dân tộc với nhau và toàn thế
giới với nhau. Liệu đây có phải là kế hoạch của ngài không? Đây không phải, đây
là kế hoạch phá hủy môi trường tu hành của Quỷ chúa (Ma vương). Quỷ chúa, ma
vương? Vị Tuệ linh đầu tiên thấu hiểu căn nguyên việc hình thành ra họ nên ngài
dự liệu được những việc của họ làm nơi trái đất và khắp vũ trụ. Dù là kế hoạch
phá hủy của quỷ chúa nhưng nó lại càng giúp cho loài người tìm tòi đến sự giải
thoát khỏi khổ đau. Những con người nghiên cứu, tu luyện thần thông, tu luyện
về tâm linh đã tiếp dẫn đến với các tuệ linh, đến với cõi trời của quỷ và cuộc
sống dưới trái
đất đã hình thành rất nhiều môn phái, trường phái, dòng đạo khác nhau, làm cho
sự mong cầu về sự giải thoát, tìm ra con đường giải thoát hơn bao giờ hết. Các
dòng đạo, tôn giáo, môn phái, trường phái, hình tướng đạo đã góp phần làm cho
mức độ tu luyện dưới nhân gian trở nên căng thẳng và phức tạp vô cùng. Con
người đã không biết đâu là đúng đâu là sai, đâu là con đường họ cần đi theo.
Đặc biệt đến nay, con người không biết sự thật về tổ tiên loài người, mình là
ai, ai là mình, mình phải làm gì ở dưới nhân gian. Chính vì thế con người ngày
càng trở nên tha hóa trong cuộc sống, sự hưởng lạc, mưu hại, giết hại nhau
không ngừng, đạo đức xã hội bị biến đổi đi xuống trầm trọng, các giá trị nhân
văn được thay thế bằng giá trị của mê tín dị đoan. Điều này lại đẩy đến cao
trào của sự hoại diệt môi trường tu hành của nhân loại mà vị Tuệ linh đầu tiên
đã tạo ra. Sau mỗi lần như vậy, dưới nhân gian lại xuất hiện các bậc giác ngộ
để dẫn dắt và cứu rỗi cho cả nhân loại.
Kế
hoạch 4, sự dẫn dắt và tìm ra hai chân lý cải tạo trụ linh:
Cuộc
sống ở nhân gian ngày càng phức tạp và phát triển, chiến tranh liên miên
giữa các bộ tộc, giữa các quốc gia đã đẩy con người đến tận cùng của khổ đau,
tận cùng của sân hận, tận cùng của toan tính, tận cùng của sự hoại diệt. Con
người không cần biết và quan tâm về cội nguồn của loài người, mình là ai, mình
phải làm gì ở cõi trần nhân gian này. Vì thế con người chỉ mải mê kiếm tìm sự
hưởng lạc, trụy lạc, mưu mô trục lợi về mình. Các tuệ linh đã luân hồi
xuống trái
đất này vô số, cứ đi xuống mà chưa tìm ra được hai chân lý để cải tạo trụ linh
nên chưa thể được về. Cứ thế, dân số ở trái đất này không
ngừng được gia tăng do nhiều muông thú sau khi được thuần hóa thành thú lành đã
được luân hồi đầu thai thành người để sống cuộc sống kiếp người với những con
người là hóa thân của dạng sống tuệ linh. Họ sống hỗn độn với nhau và chính hóa
thân của các tuệ linh không thể nhận biết, họ mưu hại, giết hại, lừa hại nhau,
con người giết hại muông thú, linh hồn các con thú dữ báo thù giết hại lại con
người, con người giết hại lẫn nhau. Tất cả tạo ra vô số khổ đau dưới nhân gian,
vô số kiếp nạn trong nhân gian, đó cũng là cơ hội cho những sứ giả
của vị Tuệ linh đầu tiên, cho những hóa thân của tuệ linh thôi thúc việc đi tìm
ra chân lý giải thoát khỏi khổ đau.
Vị
Tuệ linh đầu tiên đã gieo duyên, trợ nhân duyên cho vô số các tuệ linh dưới
nhân gian, giúp họ được thôi thúc từ tâm để tìm tòi, nghiên cứu và tìm ra chân
lý vạn vật và chân lý giải thoát. Trong lịch sử nhân loại đã chứng kiến sự hình
thành vô số tín ngưỡng thờ các vị thần, vị thánh, hình tướng các đạo phái ra
đời để giúp cho con người xây dựng được đức tin và giá trị đạo đức. Đó là đức
tin của sự tin theo, phụng sự, tu theo để được giải thoát khỏi khổ đau nơi nhân
gian. Nhưng cuối cùng tất cả các tín ngưỡng đó vẫn chưa dẫn dắt được con người
đến với sự hiểu
biết về tổ tiên của loài người. Con người vì u mê, vì tham lam, sân hận mà tạo
vô số nghiệp lực và rồi để nghiệp lực đã tạo thành tầng năng lượng khí xấu bám
chặt vào tuệ linh trong các kiếp kế tiếp. Điều này đã làm cho loài người ngày
càng mê lầm, họ mải mê tìm sự giải thoát khỏi cuộc sống này bằng lễ nghi, nghi
thức cúng cầu đến các vị thần để được giải thoát. Có quá nhiều tín ngưỡng và
hình tướng đạo đã dẫn dụ chúng sinh đến với các nghi lễ để cầu xin với các
đấng, các thần, các thánh thần nhằm giúp họ cầu được công danh, địa vị, tiền
tài, giúp họ vãng sinh về cõi trời của các vị thần vị thánh đó. Như vậy, việc
hình thành các tín ngưỡng, các hình tướng đạo đã giúp cho chúng sinh tìm tòi để
nhận thấy chân lý vạn vật và đi tìm sự giải thoát là điều rất tốt. Nhưng nó chỉ
tốt bởi hình tướng là có xuất hiện nhóm, tổ chức nghiên cứu. Tuy nhiên nó lại
vô tình đẩy chúng sinh đi vào con đường lầm than, mê lầm bởi việc đi ngược với
sứ mệnh là sống trong khổ đau kiếp nạn để tìm ra chân lý vạn vật và giác ngộ
nhằm cải tạo trụ linh chứ không phải cầu nguyện, niệm danh hiệu để được sinh về
các cõi trời của các vị thần, vị chúa hay vị phật nào cả. Như vậy, ngài
gieo duyên vô số và hình thành vô số tín ngưỡng, môn phái, hình tướng đạo nhưng
cuối cùng cũng không tìm ra con đường cải tạo trụ linh mà lại còn đi vào mê lầm
của những nghiệp lực và lừa lọc hại nhau.
Ngài
vẫn không ngừng nghỉ việc gieo duyên trợ giúp những hóa thân của các tuệ linh
đang mải miết tìm con đường giác ngộ để cải tạo trụ linh và các cơ chế cứu lại
các dạng sống trong và ngoài vũ trụ. Đó là những con người được thôi thúc từ
trong tâm họ để họ xa rời với lợi ích, ích kỷ cá nhân,
xa rời dục vọng, với phù du giả tướng, để trải qua, thấm nhuần các
khổ đau, các kiếp nạn. Điều đó đã giúp họ có kinh nghiệm vượt qua khổ đau kiếp
nạn, kinh nghiệm này được tích lũy trong nhiều kiếp, khi nó lớn mạnh thì những
con người đó đã trở thành những bậc giác ngộ của nhân loại. Trong lịch sử nhân
loại có thể kể đến
những bậc giác ngộ, đặc biệt đầu tiên là Đức Phật Thích Ca đã tìm ra chân lý
vạn vật và chuyển hóa giác ngộ được thành chân lý giác ngộ để đạo Phật được hình
thành và dẫn dắt chúng sinh tu đạo giải thoát. Tiếp sau đó là Chúa Jesus của
đạo Thiên
chúa cũng đã dẫn dắt chúng sinh rời xa việc ác, hành thiện và giúp đỡ nhau để
được trở về với Chúa. Tiếp đến là nhà tiên tri Mohammed đã sáng lập ra
đạo Hồi
và truyền bá giáo lý để dẫn dắt con dân của họ trở về với Chúa. Họ là những
lãnh tụ tinh thần dưới nhân gian, họ đã trải qua nhiều đời nhiều kiếp tu hành
trong khổ đau, lấy kinh nghiệm khổ đau để giác ngộ và cải tạo được trụ linh
thành những bộ lọc năng lượng để trở về và duy trì sự sống ở khắp vũ trụ. Họ
đón nhận những con người tu theo đường lối của họ sau khi thoát tục cõi trần và
có đủ khả năng vận hành trụ linh tỏa ra năng lượng tốt sẽ được sinh về các hành
tinh đó để tiếp tục duy trì sự sống trong vũ trụ.
Trong
4 kế hoạch này, vị Tuệ linh đầu tiên vẫn đang gieo vô số duyên để 4 kế hoạch đó
tiếp tục diễn ra, tiếp tục tạo ra môi trường tu hành khắc nghiệt hơn, tiếp tục
có các công trình nghiên cứu từ các hội đồng của dạng sống tuệ linh được đưa
xuống trái
đất để xây dựng nhân loại. Ngài tiếp tục gieo vô số duyên để giúp cho hóa thân
của các tuệ linh tìm ra con đường cải tạo trụ linh viên mãn nhất, giúp cho tất
cả các tuệ linh đạt được sự cải tạo đó để trở về thực hiện kế hoạch 2 là đi duy
trì, bảo vệ, phát triển sự sống trong và ngoài vũ trụ.
Như
vậy, cuộc di cư lịch sử của dạng sống tuệ linh đã phát triển thêm dạng sống
muông thú, dạng sống con người ở trái đất. Tại trái đất là sự chung sống của cả
ba dạng sống phức tạp nhất trong vũ trụ. Dạng sống con người được coi là siêu
phức tạp, vì là sự kết hợp dạng sống thân tướng như muông thú và trí tuệ của
dạng sống tuệ linh.
Tôi
xin tổng hợp, kết tinh lại các kế hoạch của vị Tuệ linh đầu tiên: để tìm ra
được cơ chế, phương pháp, bài thuốc cứu được tất cả các dạng sống thì phải có
một môi trường tương tác vô cùng phức tạp và đặc biệt. Có thể được đúc kết
thành câu “Để tìm ra được bài thuốc cứu lại sự sống của tất cả các dạng sống
thì phải dùng độc để tìm ra bài thuốc đó”.