Giải đoán ĐẠI-TIỂU HẠN: Một vài khía cạnh
cần nhớ.
Trên bước đường nghiên cứu
và học hỏi về Tử-Vi, tôi có thể nói rằng việc giải đóan vận hạn (tức là Đại Tiểu
Hạn) khó khăn, phức tạp, nhất là vì ta phải cân nhắc và phối hợp qúa nhiều yếu
tố, mặc dầu trong nhiều sách số có bàn tới khía cạnh này, nhưng tôi rất tiếc là
hơi tổng quát và không được rõ ràng.
Thực vậy, nếu cứ tra trong
sách thì Đại Tiểu hạn gặp sao này bị hạn, gặp sao kia phát tài, hoặc Đại hạn
nhiều sao tốt hơn sao xấu là tốt, hoặc Đại hạn xấu mà Tiểu hạn tốt cũng không
hay … như thế chúng ta làm sao có thể đi tới kết luận và như thế cũng quá giản
dị, dễ dàng và thiếu linh họat, uyển chuyển, trái hẳn với tinh thần Tử-vi.
Vi vậy tôi cố gắng thử triển
khai cách giải đoán Đại Tiểu hạn (trong bài này tôi không đề cập đến Nguyệt và Nhật Hạn vì đi qúa sâu vào
chi tiết rất khó khăn, dễ sai lầm và dễ bị thất vọng) nhưng sẽ bỏ qua những nguyên tắc
thường được các sách nêu ra để cho khỏi rườm rà.
I - ĐẠI HẠN:
Nếu so sánh với Tiểu hạn
thì Đại Hạn dễ giải đoán hơn nhiều. Vì Đại hạn bao trùm chu kỳ 10 năm, do đó tổng quát hơn và nhất là các Đại
hạn không bao giờ giống nhau, vì mỗi Đại
hạn ở một cung không trùng nhau như Tiểu hạn (vì Tiểu hạn cứ 12 năm lại trở về cung trước). Tuy nhiên khi so sánh với cách giải
đóan tổng quát Mệnh, Thân thì Đại hạn vẫn
khó tìm hiểu vô cùng.
Nói chung, khi giải đóan Đại hạn qúy bạn
nên lưu tâm tới những điểm sau (theo thứ tự):
1 - Tương quan giữa các sao
hoặc các cách (nhất là chính tinh) của Mệnh,
Thân với các sao hoặc các cách của Đại hạn.
2 - Tương quan giữa ngũ
hành của bản Mệnh (hoặc Cục) và ngũ hành của cung nhập Đại hạn,
3 - Ảnh hưởng sớm hoặc trễ
của các sao Nam Đẩu [sớm] hoặc
Bắc Đẩu [trễ] tinh.
4 - Phối hợp cung Phúc Đức
với Đại hạn.
5 - Phối hợp cung liên hệ đến
hòan cảnh xảy ra trong Đại hạn (nếu cần)
6 – Nam đẩu tinh gồm có các sao: Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên
Lương, Thất sát, Thiên Đồng, Thái Dương, Thiên Cơ.
7 – Bắc đẩu tinh gồm có các sao: Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Liêm
Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân.
8 – Riêng Sao Tử-Vi: vừa Nam đẩu tinh & Bắc đẩu tinh.
9 - Lẽ tất nhiên qúy bạn phải
xét tới ý nghĩa tốt xấu của các sao mà tôi không nêu ra, vì các sách đã có bàn
tới, ngòai những nguyên tắc nêu trên. Bây giờ tôi xin đưa ra những ví dụ cụ thể
để qúy bạn hiểu rõ các nguyên tắc tổng quát liệt kê trên đây:
10 - Sau khi đã nhận định về ý nghĩa tốt
xấu của các sao nhập Đại hạn qúy bạn cần xem các Sao, hoặc nhóm Sao
của MỆNH (nếu chưa quá 30 tuổi), hoặc THÂN (nếu trên 30 tuổi) có hợp
với các sao nhập Đại hạn hay không .?.. Đây là điểm quan trọng nhất mà nhiều người
biết Tử-vi thường hay bỏ qua. Thực tế có khi cách hoặc Sao nhập hạn rất
hay mà vẫn chẳng tốt hoặc chẳng ứng nghiệm, chỉ vì không hợp với cách của MỆNH,
THÂN.
Ví dụ: như Mệnh, hoặc Thân có cách Sát Phá Liêm Tham mà cung nhập hạn có cách Cơ
Nguyệt Đồng Lương thì không sao dung hòa được, và do đó cuộc sống phải gặp nhiều
trở ngại, mâu thuẫn đối kháng, dù cho Cơ Lương đắc địa tại Thìn-Tuất chăng nữa ?
Còn như Mệnh, Thân có cách Tử Phủ Vũ Tướng mà hạn gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương thì
nhất định là hay rồi, với điều kiện đừng có Không Kiếp lâm vào. Vì Tử Phủ rất kị
2 sao này, dù gặp gián tiếp.
11 - Ngòai ra còn cần phải
xem ngũ hành của Chính tinh thủ mạng, hoặc Thân với ngũ hành của chính tinh tọa
thủ tại cung nhập hạn (nếu có). Ví dụ:
như Mệnh có Tham Lang thuộc Thủy. Nếu đại
hạn có Tử-Phủ ở Dần hoặc Thân chẳng hạn thì vẫn xấu như thường, vì Tử-Phủ thuộc
Thổ khắc với chính tinh là Tham Lang.
12- Điểm quan trọng thứ nhì
là phải xem ngũ hành của Mệnh (nếu chưa quá 30 tuổi) hoặc của Cục (nếu
quá 30 tuổi) có hợp với Ngũ hành của Chính tinh và của cung nhập hạn hay không.
Hay nhất là được cung và sao sinh bản
Mệnh hoặc Cục (tùy theo từng trường hợp) hoặc nếu không phải tương hòa,
nghĩa là cùng một hành (có nhà Tử-vi lại cho rằng cùng một hành là thuận lợi nhất),
còn trường hợp sinh xuất, tức là Mệnh sinh Sao hoặc cung nhập hạn, và khắc nhập
tức là Sao hoặc cung khắc Mệnh, thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc nhập, tức
là sao hoặc cung khắc Mệnh thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc xuất tuy cũng
vất vả, nhưng mình vẫn khắc phục được hòan cảnh, và do đó chưa hẳn là xấu.
Ví dụ: Mạng của mình là Thủy đi đến Đại
hạn có Cự Môn, Hóa Kị, Không-Kiếp cũng chẳng hề gì, nếu có xảy ra cũng chỉ sơ qua, trong khi đó nếu mình
Mạng Hỏa, hoặc Kim thì đương nhiên dễ bị hiểm nghèo về nạn sông nước.
Hoặc là mạng mình là Kim đi đến cung nhập hạn có Vũ Khúc (Kim) hội Song Lộc, Tử-Phủ
…. thì làm gì mà không giàu có, trong khi người mạng Mộc thì có khi lại khổ về
tiền tài.
13 - Về ảnh hưởng sớm trễ của
chính tinh, chắc qúy bạn đều biết là Nam
Đẩu Tinh ứng về 05 năm sau của Đại hạn,
còn Bắc Đẩu Tinh ứng về 05 năm trước
của Đại hạn. Tuy vậy cũng vẫn có bạn chưa hiểu phải áp dụng để giải đóan như thế
nào.
Tôi xin cử một Ví dụ: Mạng có
Đào Hoa, Mộc Dục, Hoa Cái. Đại hạn có Tham Lang, Thiên Riêu, Hồng
Loan, Kình Dương, Thiên Hình … thì gần như chắc chắn trong 05 năm đầu đương số sống trong giai đọan rất
lả lướt, bay bướm vì Tham Lang
(thuộc nhóm sao Bắc Đẩu Tinh) cũng như cái đầu tàu lôi kéo tất cả các
sao phụ kia, nhưng với điều kiện đương số phải là mạng Thủy, Mộc hoặc Kim thì mới
ứng nghiệm nhiều. Vì Tham Lang thuộc hành Thủy hợp với ngũ hành trên. Nếu chính
tinh nhập hạn là Thiên Lương (thuộc nhóm sao Nam Đẩu Tinh) thì các sao phụ đó lại
phải họat động chậm lại theo với ảnh hưởng của chính tinh, tuy nhiên cuộc sống
không bừa bãi bằng người có Tham Lang nhập hạn, vì dù sao Thiên Lương vẫn là
sao đứng đắn, đàng hòang hơn (chỉ trừ trường hợp Thiên Lương cư Tị-Hợi mới xấu,
mà nhiều sách đã nói tới nhiều rồi …)
14 - Nhiều khi phối hợp Mệnh-Thân với Đại hạn cũng chưa đủ, qúy bạn còn
cần xét
đến cung Phúc Đức nữa và đừng bao giờ nên quan niệm cung Phúc Đức chỉ
biểu tượng đơn thuần về Âm Đức của Ông Bà, Cha Mẹ để lại hoặc của chính tinh tạo
ra hoặc mối liên hệ tinh thần của cả giòng họ nội của mình, vì thực ra cung
Phúc Đức có thể được coi như cung Mệnh thứ nhì, và đôi khi còn quan trọng và ảnh
hưởng hơn. Có nhiều nhà Tử-vi chỉ xét riêng cung Phúc Đức mà có thể tìm ra được
khá nhiều nét về cuộc sống tinh thần cũng như vật chất của một người, nhất là
trong trường hợp Mệnh-Thân không có đủ yếu tố để mình nhận định rõ ràng hoặc bị
coi như là nhược, khiến cho ta không thể bám víu vào mà đoán.
Ví dụ như
một người có Tả Phù, Hữu bật, Đào Hoa, Hồng Loan chiếu Thê và cung Mệnh có Thiên Riêu, Mộc Dục, Hoa Cái
… hội chiếu thì đương nhiên có lòng tà dâm, dễ có nhiều vợ …! , nhưng nếu cung
Phúc Đức có Vũ Khúc, Cô-Qủa, Lộc Tồn thì dù có gặp Đại hạn có yếu tố đa tình, lả
lướt chăng nữa cũng khó chung sống thêm với một người đàn bà nào khác một cách
chính thức, chỉ có thể giỡn chơi, hoặc thèm ăn phở … trong một thời gian ngắn
là cùng.
15- Điểm sau chót qúy bạn nên lưu
tâm là cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra hoặc cần phải giải đóan trong Đại hạn.
Trong phần nguyên tắc tổng quát nêu trên, tôi có nói là “nếu cần” thì mới xét tới,
vì khi mình giải đóan chung vận hạn thì ít khi phải nhận định khía cạnh này, chỉ
trừ khi nào cần thiết một điểm riêng biệt nào mới phải ngó tới cung liên hệ .
Ví dụ:
Như đương số đã có vợ, hoặc chồng mà cần biết về đường con cái trong
Đại hạn đương diễn tiến thì ngòai các điểm cần phối hợp nêu trên, ta phải
quan tâm đến cung Tử-Tức (tức là cung liên hệ đến hòan cảnh) trước Đại hạn. Nếu
cung Tử-Tức qúa hiếm hoi, như có Đẩu Quân, Cô-Qủa, Kình-Đà, Lộc-Tồn,
Vũ-Khúc, Không-Kiếp chẳng hạn thì dù có Đại Hạn có đủ cả Song-Hỷ, Đào-Hồng, Thai, Nhật-Nguyệt đắc địa,
Long-Phượng cũng chưa chắc gì đã sinh con đẻ cái đầy đàn, hoặc may mắn về công danh, tiền tài … Còn nếu gặp
trường hợp cung Tử-Tức không bị các sao hiếm mà lại còn có Tả-Hữu chiếu,
thì gặp
Đại hạn trên sẽ sinh liên tiếp, có khi năm một không chừng !?..
16- Lưu Đại hạn hàng năm: Lưu Đại hạn
là một cung cho biết cái của vận hạn trong năm đó, và tính từ gốc Đại hạn. Một
nhà Tử vi đã bảo rằng Đại hạn giống như cỗ xe, và Lưu Đại hạn giống như người
tài xế. Cỗ xe tốt, thì đi tốt, nhưng cũng còn tuỳ theo người tài xế hay, dở thế
nào. Vậy phải nhập cả cung Lưu Đại hạn vào mà đoán. Xem Lưu đại hạn, phải đủ cung chính và 3 cung xung chiếu, nhị hợp
...
* Cách Lưu Đại hạn hàng năm: Bạn đọc tham khảo các sách Tử vi (tôi không nhắc lại)
* Như vậy, muốn đoán Tiểu hạn ta phải xem gốc Đại hạn,
Lưu Đại hạn và cung của Tiểu hạn.
Ba yếu tố này kết hợp với nhau mà đoán.
II- TIỂU VẬN
Bàn về Tiểu-Hạn (tức là vận hạn trong một năm) qúy bạn sẽ thấy khó
khăn, phức tạp hơn Đại-Hạn nhiều, vì phải phối hợp với nhiều yếu tố hơn.
Cung Tiểu hạn ghi những biến cố xảy ra
trong năm, địa chi của năm có ghi ở mỗi cung (Tý, Sửu, Dần, Mão ….) Như Tiểu hạn mà thật tốt về công danh,
nhưng xem các cung Mệnh, Quan Lộc thấy không báo hiệu công danh tốt. Đại
hạn không phải là Đại hạn công danh, và
Lưu Đại Hạn không báo hiệu công danh, thì công danh trong năm Tiểu
hạn cũng khó mà có, hoặc chỉ có công danh nhỏ. Ngược lại, thấy Tiểu hạn
xấu, nhưng lại thấy Đại hạn tốt đẹp, thì cũng không có gì đáng phải lo ngại, bởi
vì Đại hạn là nền gốc. Xem Tiểu hạn, phải đủ cung chính và 3 cung chiếu, nhị hợp....
Nếu đặt vấn đề nguyên tắc
thì Tiểu-Hạn tạm căn cứ vào các điểm sau (mà một vài điểm theo quy tắc đã
được các sách đã nêu ra):
1 - Tương quan giữa Đại-Hạn và Tiểu-Hạn.
2 - Tương quan giữa Ngũ
hành bản Mệnh với các Chính tinh (nếu có) và cung nhập hạn.
3 - Tương quan giữa Lưu Đại-Hạn, Địa bàn và Thiên Bàn.
4 - Tương quan giữa Ngũ
Hành của năm Nhập Hạn với cung và sao nhập hạn.
5 - Các phi tinh (tức là
các sao Lưu như: Lưu Thiên Mã, Lưu Lộc-Tồn, Lưu Kình-Dương, Lưu - Đà-La, Lưu
Tang-Môn …) ngòai ý nghĩa xấu tốt của các chính tinh và phụ tinh mà các sách
thường nêu ra.
6 - Khác (như Tứ hành xung,
Can Chi của tuổi so với Can Chi của năm hiện hành …)
Dưới đây tôi xin triển khai các điểm ghi
trên để qúy bạn đọc hiểu rõ ràng:
1-
Khi xét đến tương quan giữa Đại Hạn và Tiểu Hạn là đương nhiên ta đã tìm hiểu kỹ
Đại Hạn theo các nguyên tắc mà tôi đã nêu ra ở trên. Tôi có thể nói mối
tương quan này tối quan trọng, cũng như mối tương quan giữa Đại & Tiểu Hạn
nên không bao giờ ta giải đóan giống nhau, mặc dầu cứ 12 năm lại trở về lại
cùng một cung tức là cùng các sao và ngũ hành. Riêng mục (1) này tôi chỉ xin
nêu ra nhiều ví dụ vì mục này rất quan trọng.
Ví dụ: Đầu
tiên là các sao bao giờ cũng phải có đủ bộ mới làm nên chuyện hoặc mới họat động.
Chẳng hạn như Đại Hạn có Thái Tuế, Bạch Hổ, Quan Phù, Không-Kiếp, Khốc-Hư
thường chủ về tranh chấp, kiện cáo, khẩu thiệt. Khi gặp Tiểu-Hạn có Cô-Qủa, Kình-Đà, Hình-Linh,
Hóa Kị, Phục Binh …. Thì dễ bị tai họa tù tội. Nếu Đại Hạn không có những sao nêu trên thì Tiểu-Hạn
dù có những sao đó vẫn chẳng bị tai họa gì, có thể bị đau yếu sơ qua, hoặc
bị xa gia đình …
Đó là bàn về chuyện xấu, còn về việc làm ăn thịnh vượng
thì nếu:
– Đại Hạn
có Vũ-Khúc, Thiên Phủ hợp Mệnh mà Tiểu Hạn có Song Lộc thì đương
nhiên làm ăn phát tài, dễ dàng.
– Hoặc như Đại hạn có Tử-vi cư Ngọ (nhất là có
Quan Lộc hoặc Tài Bạch đóng ở đó) hợp Mệnh mà Tiểu hạn có Khôi-Việt, Thai-Tọa,
Tả-Hữu, Long-Phượng, Đào-Hồng-Hỷ, Xương-Khúc … thì dễ có chức phận lớn, dễ
chỉ huy hoặc kinh doanh có tầm quy mô …
- Nếu thấy các sao nhập Đại Hạn & Tiểu-Hạn hợp thành bộ rồi,
cần phải xét xem các Chính tinh (không bao giờ xét đến phụ
tinh) của Đại-Hạn có phù hợp hoặc đối kháng với các Chính tinh
của Tiểu-Hạn hay không.
- Nếu Đại-Hạn có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì Tiểu-Hạn cần có Cự-Nhật hoặc
Tử Phủ Vũ Tướng chứ không nên có
Sát Phá Liêm Tham … Về điểm này qúy bạn nên xem phần Tiểu luận trong
sách Tử vi Đẩu Số Tân Biên của Vân Đằng Thái Thứ Lang cũng đầy đủ và dễ hiểu lắm.
Vì thế Tiểu-Hạn tốt cũng chưa chắc ăn mấy.
- Nếu chú ý về cá nhân
mình, thì cần Đại-Hạn tốt đi vào một
trong những cung liên hệ trực tiếp đến mình thời Tiểu-Hạn mới xứng ý (như cung
Tài, Quan, Di, Điền, Phúc).
Ví dụ: Mình muốn làm ăn, kinh doanh
lớn mà Đại-Hạn còn ở cung Phụ-Mẫu hoặc
cung Tử-Tức thì dù cho Tiểu-Hạn
có tốt cũng vẫn chưa thể phát huy được đúng mức, nhất định là phải chờ Đại-Hạn
chuyển sang cung Tài-Bạch (nhưng nếu xui xẻo ! gặp cung Tài-Bạch lại xấu thì kể
như vô vọng ?) mới hạnh thông được.
- Sau hết, tôi xin nêu ra một trường hợp rất khó đóan:
+ Đương số Mệnh có Tham
Lang cư Thìn, tức là tổng quát sống lả lướt và Đào-Hoa.
+ Cung Thê có Đào-Hồng, Tả-Hữu chiếu tức là có sự lựa chọn,
mai mối nhiều và Đại-Hạn lại đi tới
cung Thê như thế là đủ hết các yếu tố đi tới hôn nhân. Do đó
các thầy Tử-vi đều đóan đương số lấy vợ ở các Tiểu-Hạn có: Đào-Hồng-Hỷ,
Tả-Hữu, Xương-Khúc … nhưng ai ngờ rằng, đương số lại lập gia
đình trong Tiểu-Hạn có Cô-Qủa, Tang-Hổ, Nhật-Nguyệt hãm địa hội Hóa-Kị và lại
không ngó thấy ở cung Thê (vì thường
thường các nhà Tử-vi hay lựa Tiểu-Hạn hội chiếu với cung Phối hoặc trùng phùng
ngay vào cùng Phối để đóan hôn nhân). Tuy trường hợp này hơi kỳ lạ nhưng nếu
suy luận một chút là thấy hợp lý vì theo nguyên tắc “ Tổn hữu dư, bổ bất túc “
trong Dịch học, ta thấy các yếu tố về hôn nhân qúa nhiều (tức là dư) thì cần phải có các sao tiết giảm như Cô-Qủa,
Tang-Hổ, Kị … thời con thuyền mới có bến đậu được, chứ không
“Trăm mối tối nằm không” nhất là Tiểu-Hạn vào cung Giải-Ách, tức là tránh né
không nhìn thấy cung Thê là cung Đại-Hạn đi tới để khỏi chịu ảnh hưởng qúa mạnh
của các sao Hỷ. Trường hợp này ít khi xảy ra hoặc ít khi gặp, nên quý bạn đừng
qúa hoang mang, cứ đóan như thường lệ đi !!!...
2 -
Thường thường đóan Tử-vi ai cũng thích các Chính tinh sinh bản mệnh. Điều này chưa hẳn đã hay hòan tòan.
+ Vì nếu gặp chính tinh
như Phá Quân hoặc Tham Lang nhập hạn và Mạng mình có Cơ Nguyệt Đồng
Lương thì nên
lựa Mạng khắc hai sao này hơn là được hai sao này sinh (Lẽ dĩ nhiên nếu hai sao
này khắc Mạng là điều tối kị !)
Vì bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương không ưa hai chính tinh này, nên tốt hơn hết là “ mời
“ hai sao đó “ đi chơi chỗ khác “ tức là trường hợp mình có Mạng khắc hai sao
này. Ngay cả trường hợp Mạng mình có bộ
sao chế ngự được Tham-Phá (như bộ Tử-Phủ, Vũ-Tướng chẳng hạn) cũng
không nên liên hệ đến hai sao này, vì dù sao chúng cũng chủ về tham vọng,
ích kỷ, phá tán, bừa bãi, trừ phi đương số là lọai người thích đi vào con đường
đó thì không kể. Còn chính tinh nhập hạn như Tử-Phủ, Đồng-Lương … bao giờ cũng
cần sinh bản Mệnh, hoặc ít ra cùng một hành với Mạng, dù cho Đại-Hạn có bộ sao
đối kháng với các sao ở Tiểu-Hạn.
3 - Về tương quan giữa Ngũ Hành bản Mệnh với cung Nhập hạn thì bao giờ cũng sinh bản
Mệnh là tốt đẹp, thuận lợi hoặc nếu được tương hòa vẫn hay, chỉ ngại nhất
cung khắc bản Mệnh, còn như Mạng sinh Cung, hoặc khắc Cung cũng có khi dùng được,
tuy không phải là hay.
Ví dụ:
Như hạn đến cung Tử-Tức có các sao tốt. Nếu sinh được cung, tức
là mình lo được cho con cái thành công, hoặc đầy đủ, chứng tỏ mình có phương tiện,
tuy mình phải vất vả một chút vì con cái. Nhưng nếu cung Tử-Tức xấu đương nhiên
là minh khổ vì con (hoặc vì chúng đau yếu, chết non hay con cao bồi du đãng, ăn
chơi, hút chích, sì ke ma túy ….. mà mình vẫn thương yêu chúng)
4 - Còn gặp trường hợp khắc cung cũng vậy,
có khi hay mà cũng có khi dở. Nếu gặp Tiểu-Hạn đi tới cung Nô-Bộc thì lại hay
vì mình khắc phục được người dưới quyền hoặc hòan cảnh, còn như Tiểu-Hạn đi tới
cung Phụ-Mẫu chẳng hạn thì mình hay bất hòa với cha-mẹ (Nếu cung Phụ-Mẫu xấu
qúa có thể mình phải xa cách cha-mẹ khi qua đời …).Những điểm trên đây quý bạn
cũng có thể áp dụng luôn cho cả Đại hạn (mà phần Đại hạn tôi chưa đề cập tới).
5 - Về vần đề Lưu Đại-Hạn, Địa bàn
(tức là Tiểu-Hạn theo vị trí cố định của các cung - tức Lưu Thái tuế theo từng
năm, như năm nay Đinh Hợi xem Địa Bàn ở cung Hợi- tức Lưu Thái Tuế ở
cung Hợi kích động) và Thiên Bàn (tức là
Tiểu-hạn theo hàng Chi an ở ô giữa lá số. Tôi thấy không quan trọng lắm. Vì thực ra chỉ xét kỹ Thiên Bàn là đủ và đỡ rắc rối qúa mức. Chỉ trừ
khi nào ta thấy Thiên bàn qúa xấu hoặc không rõ chút nào, lúc đó ta mới cần kết
hợp thêm Lưu Đại-Hạn, và địa bàn để xem có yếu tố gì cưu giải hoặc soi sáng
thêm hay không ..?? Về cách Lưu Đại-hạn trong các sách như Tử-vi đã có ghi rõ
và nêu rồi, tôi không nhắc lại nữa.
Bởi thế ngay khi rảnh rang
ngồi cân nhắc kết hợp cũng chưa chắc đã giải đóan được chính xác. Vì yếu tố này
bổ túc hoặc chế hóa yếu tố kia sẽ đưa đến những kết luận khác nhau. Dù có biết
đủ các dữ liệu để giải đoán Tiểu-hạn cao hay thấp còn tùy thuộc rất nhiều vào
óc kết hợp tinh vi và kinh nghiệm của người giải đóan.
6- Về ngũ hành của hàng Can. Năm nhập
hạn cũng ảnh hưởng tới Tiểu-hạn nhiều hay ít .
+ Ví dụ dễ hiểu như sau: Một người mạng Kim có Cự Môn, Hóa-kỵ tọa thủ tại Mệnh. Đại-hạn
có Không-Kiếp, Tả-Hữu, Sát Phá Tham (tức là hạn Trúc La) đã chết đuối
trong tiểu hạn năm
Nhâm-Thân. Vì chữ Nhâm là Thủy và cung nhập hạn cũng là Thủy,
trong khi đó mạng Kim là
sinh Thủy cho nên nước qúa nhiều
thì Kim phải chìm lỉm !?.. Suy ra những trường hợp khác cũng vậy.
+ Ví dụ như Tiểu-Hạn đến cung Điền có Tang-Hỏa và nhiều sao Hỏa.
Nếu gặp năm Nhâm, hoặc Qúy (đều là Thủy) thì vẫn không đáng ngại về hỏa họan vì đã được Thủy dập tắt rồi !. Như vậy mục 4 này
quý bạn cũng không nên bỏ qua khi đóan tiểu hạn, và đây cũng là một điểm cho thấy
hai tiểu hạn (12 năm trở lại) cùng 1 cung đã có sự khác biệt rồi.
7- Phần chót là về các phi tinh (tức
là các sao Lưu như Lưu Thái-Tuế, Lưu Lộc Tồn …) Tôi thấy các Phi tinh không
quan trọng lắm, chỉ là để xác định thêm một chút những yếu tố đã
tìm ra.
+ Ví dụ như biết hạn xấu rồi, thì nếu có thêm Lưu Kình-Dương gặp
Kình-Dương cố định đồng cung ta có thể tin chắc là nguy nan. Nếu Tiểu-Hạn tốt
thì dù có 2 sao này cũng chẳng hề hấn gì. Cũng có Nhà Tử-vi căn cứ vào vòng
Tràng Sinh (Lưu) để tìm ra vận hạn cho những người liên hệ trực tiếp với mình
như cha, mẹ, vợ con … Nhưng tôi thấy chưa có gì chính xác và hợp lý nên xin miễn
bàn trong mục này.
Qua những điều tôi trình bày trên đây về
Đại-Tiểu Hạn. Quý bạn hẳn thấy việc giải đoán vận hạn rất rắc rối và khó
khăn rất nhiều, có thể làm ta chán nản. Vì không biết đúc kết các yếu tố tìm ra
thế nào, do đó dễ bị sai lầm. Nhiều khi ta đành phải chờ sự việc xảy ra rồi mới
thấy rõ cái hay của Tử-vi, và vì thế tôi thấy học Tử-vi không gì hay bằng chiêm
nghiệm thật nhiều lá số mà mình đã theo dõi, chứ nếu chỉ có học thuộc các câu
phú hoặc nguyên tắc giải đóan (mà các sách đã nêu) không thôi, thì chẳng bao giờ
có thể giải đoán vững vàng.