Mối quan hệ biện chứng
giữa hai chân lý với cơ chế phân tách, chụp chiếu (liên kết dây) hạt năng lượng
Hai
chân lý đó là, chân lý vạn vật (nhân quả), chân lý giác ngộ. Cơ chế phân tách,
chụp chiếu (liên kết dây). Tất cả đã được phân tích rất kỹ ở các phần trước.
Trong phần này, tôi sẽ phân tích mối quan hệ biện chứng của chúng và đưa ra các
ví dụ diễn giải cho mối quan hệ biện chứng đó.
Mối
quan hệ biện chứng:
Chân
lý vạn vật và chân lý giác ngộ là cơ sở lý luận, là phương pháp luận diễn giải
quá trình hình thành từ hạt năng lượng tận cùng cho đến sự hình thành, phát
triển của vũ trụ và trời người.
Cơ
chế phân tách, liên kết dây là cơ chế vận hành, là thực tiễn vận hành của quá
trình hình thành từ hạt năng lượng tận cùng cho đến sự hình thành, phát triển
của vũ trụ và trời người.
Có
thể thấy rằng, hai chân lý là lý thuyết, là phương pháp luận; cơ chế phân tách,
liên kết dây là thực tiễn vận hành. Thực tiễn chứng minh cho lý thuyết đúng, lý
thuyết đúng sẽ diễn giải cho thực tiễn để trời và người cùng thấu, hành theo.
Thực tiễn không thể tách rời phương pháp luận, và phương pháp luận phải có thực
tiễn. Đây chính là hai mặt của một vấn đề. Việc thấu hiểu cả hai mặt sẽ giúp
cho ta có cái nhìn đúng và chính xác nhất mọi vấn đề.
Các
ví dụ diễn giải:
Ví
dụ 1: có một cô gái xinh đẹp chia sẻ với một môn sinh của tôi rằng, cô luôn có
cảm giác không tin tưởng vào người con trai. Cô nói, cô luôn luôn nghi hoặc
người con trai không có sự chung thủy. Chính vì thế mà cô gái chưa có người yêu
chính thức, vì cứ quen và sinh khởi tình cảm thì cô gái lại gạt bỏ và không
muốn tiếp tục. Cô gái có chia sẻ là hay bị lạnh người, chán nản cuộc sống. Vậy
biện chứng giữa hai chân lý và cơ chế phân tách, liên kết dây trong trường hợp
này sẽ như thế nào?:
-
Để lý giải cho cô gái tại sao cô gái bị lạnh người và chuyện tình
yêu lại lận đận như vậy. Môn sinh của tôi có thiền quán đi trong mã sóng của
hạt năng lượng để thấy kiếp trước của cô gái. Sau khi thiền xong, môn sinh của
tôi có chia sẻ lại với cô gái rằng: “kiếp trước của cô gái cũng là một cô gái
xinh đẹp, cô có yêu một chàng trai. Hai người yêu nhau, nhưng do cha mẹ ngăn cấm
vì giáo điều thời đó. Hai người vì yêu mà không đến được với nhau do ngăn cấm,
nên nảy sinh ra tiêu cực. Hai người quyết định quyên sinh và hẹn kiếp sau nên
duyên vợ chồng. Hai người đến một cây cầu để tự tử, cô gái nhảy cầu trước và
chết, còn người con trai lúc đó sợ chết nên không nhảy cầu tự tử mà quay về.
Sau đó, tuệ linh cô gái hận chàng trai đó, sự oán hận đã làm cho tuệ linh của
cô gái đó ở kiếp này luôn nghi ngờ con trai và không muốn yêu ai. Sự oán hận
của tuệ linh đã làm cho cô gái luôn bị lạnh người. Oán hận là năng lượng ngã
quỷ nên sẽ lạnh”. Sau khi cô gái nghe lại câu chuyện tình yêu của mình kiếp
trước, được những môn sinh của tôi giảng giải về giáo lý của hai chân lý, cô đã
thay đổi. Bây giờ, sau nửa năm cô gái đã có bạn trai, thân nhiệt trong người đã
ấm, không còn lạnh người như trước. Đó là dùng chân lý vạn vật để thấu hiểu và
giải thích căn nguyên; tiếp đó là dùng chân lý giác ngộ để giảng cho cô gái
hiểu và hướng dẫn thay đổi suy nghĩ cũng như hành động để chuyển hóa năng lượng
trong tâm (tuệ linh); từ đó cuộc sống hạnh phúc và an lạc.
-
Cơ chế phân tách, chụp chiếu (liên kết dây) trong ví dụ trên như
thế nào? Tôi xin được phân tích trường hợp này bằng cơ chế phân tách, chụp
chiếu như sau: khi hai người yêu nhau, sự tương tác của tình yêu nam nữ, sự
mong nguyện được sống hạnh phúc bên nhau. Khi đó chàng trai và cô gái đang có
tư tưởng suy nghĩ tích cực về cuộc sống tương lai nên mỗi người đều hình thành
1 hạt năng lượng phát triển màu xanh, hạt năng lượng được hình thành do sự rung
động và quá trình yêu nhau. Hạt năng lượng của mỗi người bắt đầu phân tách ra
làm 3 hạt, một hạt di chuyển vào vũ trụ, nơi có chứa đựng tầng năng lượng phát
triển xanh lá, một hạt di chuyển vào não bộ, và một hạt di chuyển vào trụ linh
của tuệ linh trong tâm của chàng trai và cô gái. Tiếp theo, khi bị ngăn cấm từ
gia đình làm cho họ phải chia ly nhau, cả hai người đều nghĩ tiêu cực và dẫn
đến hành động tự tử. Khi nghĩ tiêu cực thì sẽ tạo ra sóng rung động tiêu cực,
và quá trình hành động nhảy cầu tự tử sẽ hoàn thành hạt năng lượng tiêu cực màu
đen của cô gái. Chàng trai không nhảy cầu, nhưng lại phản bội lời nguyện của cả
hai nên hình thành hạt năng lượng đen do nói dối khiến cho cô gái chết. Theo cơ
chế phân tách hạt năng lượng. Hai hạt năng lượng của hai người đều phân tách
làm 3 hạt, một hạt bắn vào vũ trụ, nơi có tầng năng lượng tiêu cực màu đen, một
hạt đi vào não bộ, một hạt đi vào trụ linh của tuệ linh (tâm) của hai người.
Sau khi cô gái chết, tuệ linh tách ra, thấy người yêu phản bội lời hứa nên sinh
khởi oán hận. Việc sinh khởi oán hận của tuệ linh cô gái sau khi chết đã tạo ra
nhiều hạt năng lượng đỏ máu cho đến khi cô được siêu thoát để luân hồi mới
ngừng việc sản sinh ra các hạt năng lượng đỏ máu. Những hạt năng lượng này phân
tách làm 2, một hạt bắn vào vũ trụ, nơi chứa đựng tầng năng lượng tiêu cực đỏ
máu, môt hạt di chuyển vào trụ linh của tuệ linh. Đến kiếp này, khi đến tuổi
rung động của tình yêu, sóng rung động sẽ tạo ra tín hiệu cho những hạt năng
lượng đen, đỏ máu đã tạo ra ở kiếp trước cũng rung động theo và chúng tạo thành
liên kết chuỗi. Và những hạt trong vũ trụ di chuyển vào trụ linh trong tuệ linh
của cô gái kiếp này. Khi đó, tuệ linh cô nhớ lại kiếp quá khứ, tuệ sẽ chìm đắm
trong suy nghĩ tiêu cực, trong sự oán hận người con trai. Quá trình đó tạo ra
sóng điện âm từ trụ linh trong tuệ linh (tâm) của cô gái truyền ra não bộ, khắp
cơ thể, làm cho cô gái lạnh người. Thậm chí là không tin tưởng con trai, không
muốn yêu đương, có giai đoạn cô gái còn định tự tử. Như vậy quá trình phân tách
các hạt năng lượng ở kiếp trước và quá trình liên kết lại chúng là ở kiếp này.
Dù khoảng cách thời gian xa, nhưng do các hạt năng lượng được liên kết bởi sóng
rung động trong sợi mã sóng trí tuệ nên nó tự động liên kết khi kích hoạt sóng
rung động. Sau đó, cô gái học và thấu hiểu hai chân lý, cô gái đã thay đổi suy
nghĩ, cô suy nghĩ và hành động tích cực. Khi cô gái nghĩ tích cực đã chuyển hóa
các hạt năng lượng tiêu cực trong tuệ linh trở thành những hạt chân tâm (sóng
điện trung tính), bên cạnh đó, việc cô nghĩ vào tương lai tốt đẹp trong tình
yêu đã tạo ra sóng rung động và hình thành các hạt năng lượng tốt theo cơ chế
phân tách làm 3 hạt, một hạt vào vũ trụ, một hạt vào não bộ, một hạt vào trụ
linh của tuệ linh (tâm). Chính việc cô gái thay đổi suy nghĩ tiêu cực thành
tích cực đã sinh ra nhiều hạt năng lượng có sóng điện trung tính và sóng điện
dương để chuyển hóa những hạt năng lượng có sóng điện âm trong tuệ linh (tâm),
nên cô không còn oán hận, không còn hoài nghi con trai, cơ thể cô đã ấm mà
không lạnh nữa. Quá trình chuyển hóa năng lượng chính là đã phân tách ra nhiều
hạt năng lượng tốt có liên kết dây để cấu trúc lại mã sóng trí tuệ trong tuệ
linh được ổn định.
Đó
là biện chứng giữa hai chân lý với cơ chế phân tách, chụp chiếu hạt năng lượng
của trường hợp cô gái để chúng ta thấy lý luận phải gắn chặt với cơ chế, thực
tiễn và ngược lại là cơ chế chứng minh cho lý luận.
Ví
dụ 2: có một chàng trai trẻ tuổi đang đuối nước, chàng trai cố gắng kêu cứu
được vài tiếng thì chìm hẳn xuống dưới mặt nước. Trong lúc đó, có một chàng
trai to khỏe khác lao xuống nước cứu vớt được chàng trai chết đuối lên. Chàng
trai đuối nước được cứu sống và vô cùng cảm ơn ân nhân đã cứu mình. Vậy biện
chứng giữa hai chân lý và cơ chế phân tách, liên kết dây trong trường hợp này
sẽ như thế nào?:
-
Thiền quán người chết đuối kiếp trước và phân tích hai chân lý để
thấy tương lai các kiếp sau của cả người được cứu và người cứu. Khi thiền quán
kiếp trước của người đuối nước được cứu, kiếp trước cũng đã cứu được người bị
đuối nước. Phân tích chân lý vạn vật thì người được cứu ở kiếp này sẽ khởi tình
yêu thương và sẵn sàng cứu giúp người khác khi hoạn nạn. Đó cũng chính là sinh
khởi tư tưởng của người được cứu ở kiếp trước. Người vừa cứu người đuối nước,
kiếp sau nếu có gặp nạn, sẽ có người cứu. Đó là nhân quả và giác ngộ. Được cứu
ở kiếp này là do gieo nhân tốt ở kiếp trước, cứu người kiếp này là xả thân để
cứu người đó là giác ngộ.
-
Cơ chế phân tách, chụp chiếu hạt năng lượng trong trường hợp này:
người bị đuối nước kiếp này, kiếp trước đã từng cứu người chết đuối. Kiếp trước
với hành động cứu người đã sản sinh ra hai hạt năng lượng cho cả người cứu và
người được cứu. Đó là những hạt năng lượng mang sóng điện dương. Hạt năng lượng
của cả hai người đều phân tách làm 3, một hạt vào vũ trụ, một hạt vào tuệ linh,
một hạt vào não bộ. Đó là hạt năng lượng trắng có phớt vàng. Trong hai hạt năng
lượng đều có sóng rung, sóng rung của người được cứu là sự kêu cứu, sóng rung
của người cứu là nghe thấy tiếng kêu cứu. Kiếp này, khi người cứu người kiếp
trước gặp nạn đuối nước. Người đó kêu cứu, việc kêu cứu đã kích hoạt sóng rung
của hạt năng lượng cứu người kiếp trước có được, khi đó sẽ rung động các hạt
năng lượng có sóng rung sẽ cứu người khi có người gặp nạn. Và tiếng kêu cứu
không những kích hoạt hạt năng lượng phước báo về mà còn kích hoạt sóng rung
của người muốn cứu người. Chính vì thế mà có người nghe thấy tiếng kêu cứu,
liền xả thân cứu vớt người đuối nước.
Như
vậy, tại trường hợp này vẫn là sự biện chứng của hai chân lý với cơ chế phân
tách, chụp chiếu hạt năng lượng. Chính vì thế, không có cầu cúng, đàn lễ nào
hóa giải được nghiệp lực hoặc xin phước báo. Tất cả phải thực hành bằng suy
nghĩ cho đến hành động tạo thiện để sinh khởi và nhận lại phước báo thông qua
cơ chế phân tách, chụp chiếu hạt năng lượng. Các ví dụ để dẫn chứng cho mối
quan hệ biện chứng giữa hai chân lý với cơ chế phân tách, chụp chiếu là vô số.
Độc giả có thể ứng dụng cho từng trường hợp thực tế để phân tích, qua đó sẽ
thấy hai chân lý tuy đơn giản nhưng lại là khoa học của khoa học, là khoa học
vì sự thực chứng của cơ chế vận hành trong thực tiễn.