Có đức quý nhân là tháng đó đức sinh vượng, người có tú quý nhân là hòa hợp với túkhí ngũ hành trong trời đất biến hóa mà thành.
Đức quý nhân là thần giải hung âm dương ; tú quý nhân là khí thanh tú của trời đất , làvượng bốn mùa. Người trong mệnh có đức, tú quý nhân, tú quý nhân không bị xung, phá ,khắc áp thì tính thông minh, ôn hòa trung hậu, nếu gặp xung khắc thì bị giảm yếu. Tóm lại,đức, tú cũng là một loại quý nhân, nó có thể biến hung thành cát. Trong mệnh có nó là ngườithành thật, tinh thần sáng sủa, nghĩa hiệp thanh cao, tài hoa xuất chúng.
Thiên đức nguyệt đức là mặt trời và mặt trăng hội hợp chiếu vào, bất cứ sự ám muộinào cũng không tồn tại được trong đó. Cho nên mọi sự cướp bóc, độc ác đều có thần cứu giải.Khí đẹp của thiên đức là thần hoá hung thành cát, đại phúc đức, nếu có thêm lộc, mã, ấn , thuquý nhân giúp thêm, hoặc có cả thiên đức và nguyệt đức thì sẽ có đủ tài, quan,ấn, thực ; nếucòn được tam kỳ ngũ hành sinh vượng, không bị thương khắc phá hại thì hiển đạt vinh hoa,suốt đời không gặp điều gì ngang ngược. Nếu bị tử, thương, phá thì việc gì cũng không thành.Mệnh không có thái cực quý nhân thì bần tiện hung ác, nếu gặp được thiên đức, nguyệt đức làcó cứu giải. Trong hai đức, thiên đức làm đầu, nguyệt đức thứ hai. Nó sẽ biến tài quan ấn thutăng lên gấp bội, làm cho can ngày thêm tốt.
Hai đức này lâm nhật thì chủ về cuộc đời không gặp gì nguy hiểm. Gặp được tướng tinhthì công thành danh toại. Được một đức phù hộ thì mọi điều xấu được giải thoát. Thiên, nguyệt đức quý nhân là thần cứu giải, mọi nạn đều qua. Thơ xưanói : “ Thiên đức vốn là đại cát, nếu gặp ngày giờ là rất tốt, thi cử sẽ đỗ cao, làm việc gì cũngthành công.... Trong mệnh nếu có thiên, nguyệt đức thì cầu việc gì cũng lợi, sĩ công nôngthương làm nghề gì cũng gặp may. Anh em vợ chồng không khắc hại nhau, âm đức tổ tiên dồidào, còn trẻ đã thành đạt”.
Trong mệnh có cả hai thiên, nguyệt đức thì người hiền từ hay bố thí, làm việc theocông bằng, yêu nước thương dân, thông minh trí tuệ, tài cán hơn người , ít bệnh tật, không bịhình phạt, gặp hung hóa cát, gặp nạn được cứu. Người mà tài, ấn, thực đều có, còn có hai đứcthì giảm được điều xấu, phúc được tăng thêm. Người gặp kiêu, sát, thương, kiếp những việcngang trái dễ hóa phúc. Nữ có hai đức thì lấy được chồng đẹp, thông minh con nhà giàu sang,dễ sinh đẻ.
Thiên đức, nguyệt đức được cát thần phù trợ càng thêm tốt, sợ nhất tự gặp xung khắc,bị xung khắc tất nhiên vô lực.
Cấu nghĩa là liên luỵ, giảo nghĩa là trói buộc, cột vào. Mệnh gặp hai sát đó thân bịkhắc sát, nhưng nhiều cơ mưu, chủ về nắm các việc hình phạt hoặc là tướng soái, những việcsát hại. Năm hành đến đó thường gặp chuyện cãi cọ, hình phạt. Cả hai đều gặp càng nặng, gặpmột thì nhẹ hơn, đi với quan sát thì nặng.
Ngày hoặc tuế vận gặp cấu hay giảo là chủ về tai nạn nát thân.
Nếu trong mệnh có phúc tinh thì chủ về cuộc đời phúc lộc dồi dào, có cả cách cục phốihợp thì còn nhiều phúc và sống lâu, vàng bạc đầy nhà. Người bình thường gặp được thì ít nhấtcũng ngày ba bữa no ấm, cuộc sống vô lo. Sao này phần nhiều chỉ về bình an, có phúc chứ không chỉ sự giàu sang.
Quốc ấn quý nhân trong dự đoán nói chung ít dùng, nhưng người trong Tứ trụ có quốc ấn quý nhân và sinh vượng thì hầu hết làm chức to trong nhà nước hoặc nắm quyền quản lý ở cơ quan. Sao này cũng có thể tham khảo để các cơ quan dùng tuyển người giữ chức cao.
Người Tứ trụ có quốc ấn, chủ về thành thực đáng tin, nghiêm tức thanh liêm, quy củ,hành sự theo lẽ công, vui vẻ với mọi người , lễ nghĩa nhân từ, khí chất hiên ngang. Nếu ấn gặp sinh vượng và có các cát tinh tương trợ, không gặp xung, phá, khắc, hại thì không những có thểđứng đầu cơ quan mà còn có khả năng tốt.
Thời xưa trạch trạm là cơ quan văn thư của quan. Trạch mã là công cụ giao thôngtruyền văn thư của quan, cho nên trạch mã thông thường là chỉ về trạng thái động. Hung thầnlà mã, lớn thì tin vui ngất trời, nhỏ thì lợi về động. Hung thần là mã, lớn thì tai vạ ngã lên ngãxuống, nhỏ thì chạy ngược chạy xuôi vất vả. Nếu gặp xung thì như bị roi quất , gặp hợp nhưđược nghỉ chân, gặp lưu niên cũng thế.
Mã gặp tài của lưu niên đại vận thì phát nhanh. “Mã đầu đeo kiếm là uy trấn biên cương” tức nói mã tinh, nhật nguyên lâm ngày nhâm thân hoặcngày quý dậu thì ra trấn giữ biên cương. Mã tinh ở trụ giờ thì người đó đi kinh doanh, hiếuđộng mới lợi cho cầu danh cầu lợi. Sợ nhất là gặp kình dương đầy máu ; gặp thiên lộc, chínhlộc, khôi canh thì thông minh cao quý ; gặp bệnh hại tử tuyệt thì đi giang hồ, bôn ba nơi xa.Quý nhân mà gặp mã tinh thì thăng vượt, người bình thường gặp mã tinh thì long đong.
Trạch mã sinh vượng là người nhanh nhẹn, trí lự, thông biến luôn luôn, bình sinh nhiềudanh vọng ; gặp tử tuyệt thì có đầu không có đuôi, cuộc đời ít thành công mà phiêu bạt vô định ; gặp lộc thì phúc nhiều, gặp sát tương xung, hoặc cô thần, điếu khách, tang môn là ngườixa quê hương để đi theo tăng đạo hoặc buôn bán ; gặp lưu niên thì ốm đau, bệnh tật kinh dị ;gặp quan phù thì bị việc quan.
Mã là động, là tượng bôn ba. Người Tứ trụ gặp trạch mã là người hiếu động, đi khắpbốn phương như quân nhân, thương nhân hoặc làm ngoại giao thường đi công tác. Mã tinh cònlà tiêu chí dự đoán đi nước ngoài. Mã tinh bị hợp chặt thì có cũng như không, mã tinh bị xugnmất thì ngày đi nghìn dặm. Nữ giới gặp mã tinh thì tâm bất an, không ở một chỗ, là tượng bấtlợi.
Có đức quý nhân là tháng đó đức sinh vượng, người có tú quý nhân là hòa hợp với túkhí ngũ hành trong trời đất biến hóa mà thành.
Đức quý nhân là thần giải hung âm dương ; tú quý nhân là khí thanh tú của trời đất , làvượng bốn mùa. Người trong mệnh có đức, tú quý nhân, tú quý nhân không bị xung, phá ,khắc áp thì tính thông minh, ôn hòa trung hậu, nếu gặp xung khắc thì bị giảm yếu. Tóm lại,đức, tú cũng là một loại quý nhân, nó có thể biến hung thành cát. Trong mệnh có nó là ngườithành thật, tinh thần sáng sủa, nghĩa hiệp thanh cao, tài hoa xuất chúng.
Nếu trong mệnh có phúc tinh thì chủ về cuộc đời phúc lộc dồi dào, có cả cách cục phốihợp thì còn nhiều phúc và sống lâu, vàng bạc đầy nhà. Người bình thường gặp được thì ít nhấtcũng ngày ba bữa no ấm, cuộc sống vô lo. Sao này phần nhiều chỉ về bình an, có phúc chứ không chỉ sự giàu sang.
Thập ác như là người phạm mười trọng tội trong luật pháp, không được giảm xá. Đạibại là như trong luật nhà binh giao tranh thất bại, không sót một ai, nghĩa là rất nặng nề. Ngàythập ác đại bại là ngày hung, cổ xưa giao chiến rất kiêng kị, nguồn gốc của nó là từ các sách “Nguyên bách kinh”, “ Thích giáo huyền hoàng kinh” và “ Uyên hải tử bình”. Tôi trong quátrình nghiên cứu phát hiện hai sách đầu chủ yếu là giải thích ngày thập ác đại bại của “ Uyênhải tử bình” mà ra, nhưng trong ngày đại bại lại có thực tiễn hai sách đó ít được dùng, mà hầuhết dùng theo phương pháp tử bình.
Ngày thập ác đại bại là “ kho vàng bạc hóa thành đất bụi”. Nếu gặp cát thần phù trợ,quý khí trợ giúp thì còn tốt, nếu gặp thiên đức, nguyệt đức thì không còn điều kị nữa, hoặc gặp tuế kiến, nguyệt kiến, thái dương điền đầy cũng không còn là kị nữa.
Thiên ất quý nhân là trong năm tháng ngày giờ sinh gặp quý nhân, quý nhân là cát tinh, là sao giải ách, sao cứu trợ. Trong Tứ trụ có quý nhân là gặp việc có người giúp, gặp tai ách có người giải cứu, là sao gặp hung hóa thành cát. Cho nên sách “ Tam mệnh thông hội”nói : “ Thiên ất là thần trên trời, trong tử vi luôn ở bên ngoài cửa, sắp hàng ngang, thái ất làmnhững việc của thiên hoàng đại đế, nên tên gọi là thiên ất. Thần thiên ất tôn quý, tất cả mọi hung sát đều phải lánh xa.”. Sách “ Chúc thần kinh” còn nói “ Thiên ất quý nhân gặp sinhvượng, thì diện mạo hiên ngang, tính tình nhanh nhẹn, lý lẽ phân minh, không thích mẹo vặt,mà thẳng thắn, người ôn hòa đức độ, được mọi người yêu mến khâm phục. Thái ất mà tử tuyệt thì tính tình cố chấp, có thái ất sẽ đỡ. Nếu thái ất đi với kiếp sát thì có uy, đa mưu túc kế. Tháiất đi với quan phù thì văn chương bay bổng, lời lẽ hùng biện. Thái ất đi với kiến lộc thì vănchương thành thật, ân huệ khắp nơi, là người quân tử”.
Thiên ất quý nhân là thần tốt nhất trong mệnh. Ai có nó thì vinh hiển, công danh sớmđạt, dễ thăng quan. Nếu mệnh thừa vượng khí thì có thể đạt đến danh tướng, công hầu. Đạitiểu vận hành đến năm đó thì nhất định sẽ được thăng quan. Tất cả những gì gặp được cái nàyđều là điềm tốt. Phàm người ta đến lúc gặp được thái ất quý nhân thì gặp tin vui, mọi việc đềuthuận. Thiên ất quý nhân lại gặp được thiên đức, nguyệt đức thì quý vô cùng, người đó thôngminh trí tuệ. Quý nhân toạ vào can ngày thì suốt đời thanh cao. Tóm lại trong Tứ trụ có thiên ất quý nhân thì thông minh tháo vát, gặp việc linh lợi, gặp hung hóa cát, là người hào phóng,hay vui vẻ giúp người, tâm tư hiền lành, giao thiệp rộng rãi, được mọi người ủng hộ. Thiên ấtquý nhân tốt nhất là được sinh vượng, được cát tinh trợ giúp,kị nhất là gặp hình xung khắc hạihoặc đất không, vong, tử, tuyệt. Người gặp thế là họa, nguồn phúc giảm đi, suốt đời vất vả.
Thiên đức nguyệt đức là mặt trời và mặt trăng hội hợp chiếu vào, bất cứ sự ám muộinào cũng không tồn tại được trong đó. Cho nên mọi sự cướp bóc, độc ác đều có thần cứu giải.Khí đẹp của thiên đức là thần hoá hung thành cát, đại phúc đức, nếu có thêm lộc, mã, ấn , thuquý nhân giúp thêm, hoặc có cả thiên đức và nguyệt đức thì sẽ có đủ tài, quan,ấn, thực ; nếucòn được tam kỳ ngũ hành sinh vượng, không bị thương khắc phá hại thì hiển đạt vinh hoa,suốt đời không gặp điều gì ngang ngược. Nếu bị tử, thương, phá thì việc gì cũng không thành.Mệnh không có thái cực quý nhân thì bần tiện hung ác, nếu gặp được thiên đức, nguyệt đức làcó cứu giải. Trong hai đức, thiên đức làm đầu, nguyệt đức thứ hai. Nó sẽ biến tài quan ấn thutăng lên gấp bội, làm cho can ngày thêm tốt.
Hai đức này lâm nhật thì chủ về cuộc đời không gặp gì nguy hiểm. Gặp được tướng tinhthì công thành danh toại. Được một đức phù hộ thì mọi điều xấu được giải thoát. Thiên, nguyệt đức quý nhân là thần cứu giải, mọi nạn đều qua. Thơ xưanói : “ Thiên đức vốn là đại cát, nếu gặp ngày giờ là rất tốt, thi cử sẽ đỗ cao, làm việc gì cũngthành công.... Trong mệnh nếu có thiên, nguyệt đức thì cầu việc gì cũng lợi, sĩ công nôngthương làm nghề gì cũng gặp may. Anh em vợ chồng không khắc hại nhau, âm đức tổ tiên dồidào, còn trẻ đã thành đạt”.
Trong mệnh có cả hai thiên, nguyệt đức thì người hiền từ hay bố thí, làm việc theocông bằng, yêu nước thương dân, thông minh trí tuệ, tài cán hơn người , ít bệnh tật, không bịhình phạt, gặp hung hóa cát, gặp nạn được cứu. Người mà tài, ấn, thực đều có, còn có hai đứcthì giảm được điều xấu, phúc được tăng thêm. Người gặp kiêu, sát, thương, kiếp những việcngang trái dễ hóa phúc. Nữ có hai đức thì lấy được chồng đẹp, thông minh con nhà giàu sang,dễ sinh đẻ.
Thiên đức, nguyệt đức được cát thần phù trợ càng thêm tốt, sợ nhất tự gặp xung khắc,bị xung khắc tất nhiên vô lực.
Cấu nghĩa là liên luỵ, giảo nghĩa là trói buộc, cột vào. Mệnh gặp hai sát đó thân bịkhắc sát, nhưng nhiều cơ mưu, chủ về nắm các việc hình phạt hoặc là tướng soái, những việcsát hại. Năm hành đến đó thường gặp chuyện cãi cọ, hình phạt. Cả hai đều gặp càng nặng, gặpmột thì nhẹ hơn, đi với quan sát thì nặng.
Ngày hoặc tuế vận gặp cấu hay giảo là chủ về tai nạn nát thân.
Người có học đường quý nhân ví dụ như người được học cao, nên gọi là văn tinh, tứcchỉ về những viẹc công danh, học nghiệp. Phàm người có sao này nhập mệnh chủ về thứ bậcthì đỗ hoặc tiền đồ học nghiệp.
Học đường, từ quán chủ về tú khí phát sinh, thông minh khéo léo, văn chương nổitiếng, cuộc đời giàu sang. Nên được sinh vượng không nên bị khắc, hại, xung, phá. nếu có thiên ất quý nhân hoặc cát tinh phù trợ thì tốt, nếu không thì tài năng khó thì thố, ý chí bị bó buộc.
Kiếp có nghĩa là đoạt, bị cướp đoạt từ ngoài gọi là kiếp. Kiếp sát tốt thì thông tuệ nhạybén, tài trí hơn người, không làm chậm việc, lòng rộng bao la, cao minh nhanh nhẹn, vũ đứcđều cao. Sinh vượng đi với quý sát là gặp lộc ngay. Hung sát thì manh tâm độc ác, binh nghiệpthì bị thương, cướp bóc vô tình. Cho nên có câu : “ Kiếp sát là vạ không lường, tài lợi danhtrường bỗng nhiên mất hết, phải đề phòng tổ nghiệp tiêu tan, vợ con không kéo dài được cuộcsống. Người mà Tứ trụ gặp phùng sinh và kiếp sát sẽ trở thành bậc nho sĩ chấn hưng sự nghiệpcho triều đình, nếu giờ sinh có cả quan quý thì làm quan to. Kiếp thân gặp quan tinh là chủ vềngười nắm binh quyền, có uy và được nhiều người ngưỡng mộ.”
Kiếp sát chủ về hung, về các tai vạ bệnh tật, bị thương hình pháp, trong Tứ trụ không gặp được là tốt nhất. Nếu nó là kị thần thì tính cách cường bạo, gian hoạt giảo trá, thườngchuốc lấy tai hoạ. Nếu là cát tinh hoặc hỉ thần, dụng thần thì là người hiếu học, cầu tiến bộ,ham lập nghiệp, công việc chuyên cần, quả đoán trong công việc, dễ thành công.
Kim dư, kim là quý, dư là xe, nên kim dư có nghĩa là xe chở vàng, là xe mà quân tử,quý nhân đi, ví như quân tử làm quan được lộc phải ngồi xe chở đi.
Kim dư là cát tinh, là xe hoa lệ, là hành vi phú quý, là phương tiên của quan và ngườigiàu qua lại. Người gặp nó thì phúc đặc biệt, chủ về thông minh, phú quý, tính cách uyểnchuyển ôn hòa, dáng người thanh thản. Ngày sinh giờ sinh gặp là tốt. Cho nên phàm là ngườicó phúc, con cháu đông đúc. Nữ gặp thì nhiều phú quý. Nếu gặp kim dư, mã tinh thì khôngnhững lên xe xuống ngựa mà càng có người ra vào tấp nập, uy phong lừng lẫy.
Có đức quý nhân là tháng đó đức sinh vượng, người có tú quý nhân là hòa hợp với túkhí ngũ hành trong trời đất biến hóa mà thành.
Đức quý nhân là thần giải hung âm dương ; Tú quý nhân là khí thanh tú của trời đất , làvượng bốn mùa. Người trong mệnh có đức, tú quý nhân, tú quý nhân không bị xung, phá ,khắc áp thì tính thông minh, ôn hòa trung hậu, nếu gặp xung khắc thì bị giảm yếu. Tóm lại,đức, tú cũng là một loại quý nhân, nó có thể biến hung thành cát. Trong mệnh có nó là ngườithành thật, tinh thần sáng sủa, nghĩa hiệp thanh cao, tài hoa xuất chúng.
Văn xương nhập mệnh chủ về thông minh hơn người , gặp hung hóa cát. Tác dụng của nó tương tự như thiên đức, nguyệt đức, thiên ất quý nhân. Văn xương tức thực thần kiến lộc. Người văn xương nhập mênh thì khí chất thanh tao, văn chương cử thế. Nam gặp được thì nội tâm phong phú, nữ gặp được thì đoan trang, ham học, ham hiểu biết, muốn vươn lên, cuộc đời lợi đường tiến chức, không giao thiệp với kẻ tầm thường. Trong thực tiễn, người có văn xương quý nhân sinh vượng, thường đỗ đạt các trường chuyên khoa, đại học, về đường học hành thi cử.
ĐẠI VẬN LƯU NIÊN:
Số tính đại vận = 29.1164236111108; Nhập đại vận lúc 9 tuổi 9 tháng. Tiết Lập xuân bắt đầu 04-02-1976 23:39; Khí Vũ thủy từ 19-02-1976 19:39 đến 05-03-1976 17:47;
1) NĂm 2014 (tính từ 10/2014-10/2015):
anh được cơ cấu lên chức Phó phòng, cấp phó, trong ban hành chính, văn phòng hành hính, học trong trường học có phải không?
2) năm 2015 (tính từ 10/2015-10/2016): anh chính thức nhận quyết định, hồ sơ về sự việc trên phải không?
3) từ năm 206 (tín từ 10/2016-10/2017): anh sẽ chuyển côn việc, chuyển công tác phải không?
Các câu hỏi anh hỏi ở trên không ăn nhập gì với tôi. có thể là tôi đã ghi sai giờ sinh. Vi toi sinh o Đức la 8 gio sang, không biết đổi sang giờ vietnam hay giờ china thì mới là đúng.
Có đức quý nhân là tháng đó đức sinh vượng, người có tú quý nhân là hòa hợp với túkhí ngũ hành trong trời đất biến hóa mà thành.
Đức quý nhân là thần giải hung âm dương ; tú quý nhân là khí thanh tú của trời đất , làvượng bốn mùa. Người trong mệnh có đức, tú quý nhân, tú quý nhân không bị xung, phá ,khắc áp thì tính thông minh, ôn hòa trung hậu, nếu gặp xung khắc thì bị giảm yếu. Tóm lại,đức, tú cũng là một loại quý nhân, nó có thể biến hung thành cát. Trong mệnh có nó là ngườithành thật, tinh thần sáng sủa, nghĩa hiệp thanh cao, tài hoa xuất chúng.
Thiên đức nguyệt đức là mặt trời và mặt trăng hội hợp chiếu vào, bất cứ sự ám muộinào cũng không tồn tại được trong đó. Cho nên mọi sự cướp bóc, độc ác đều có thần cứu giải.Khí đẹp của thiên đức là thần hoá hung thành cát, đại phúc đức, nếu có thêm lộc, mã, ấn , thuquý nhân giúp thêm, hoặc có cả thiên đức và nguyệt đức thì sẽ có đủ tài, quan,ấn, thực ; nếucòn được tam kỳ ngũ hành sinh vượng, không bị thương khắc phá hại thì hiển đạt vinh hoa,suốt đời không gặp điều gì ngang ngược. Nếu bị tử, thương, phá thì việc gì cũng không thành.Mệnh không có thái cực quý nhân thì bần tiện hung ác, nếu gặp được thiên đức, nguyệt đức làcó cứu giải. Trong hai đức, thiên đức làm đầu, nguyệt đức thứ hai. Nó sẽ biến tài quan ấn thutăng lên gấp bội, làm cho can ngày thêm tốt.
Hai đức này lâm nhật thì chủ về cuộc đời không gặp gì nguy hiểm. Gặp được tướng tinhthì công thành danh toại. Được một đức phù hộ thì mọi điều xấu được giải thoát. Thiên, nguyệt đức quý nhân là thần cứu giải, mọi nạn đều qua. Thơ xưanói : “ Thiên đức vốn là đại cát, nếu gặp ngày giờ là rất tốt, thi cử sẽ đỗ cao, làm việc gì cũngthành công.... Trong mệnh nếu có thiên, nguyệt đức thì cầu việc gì cũng lợi, sĩ công nôngthương làm nghề gì cũng gặp may. Anh em vợ chồng không khắc hại nhau, âm đức tổ tiên dồidào, còn trẻ đã thành đạt”.
Trong mệnh có cả hai thiên, nguyệt đức thì người hiền từ hay bố thí, làm việc theocông bằng, yêu nước thương dân, thông minh trí tuệ, tài cán hơn người , ít bệnh tật, không bịhình phạt, gặp hung hóa cát, gặp nạn được cứu. Người mà tài, ấn, thực đều có, còn có hai đứcthì giảm được điều xấu, phúc được tăng thêm. Người gặp kiêu, sát, thương, kiếp những việcngang trái dễ hóa phúc. Nữ có hai đức thì lấy được chồng đẹp, thông minh con nhà giàu sang,dễ sinh đẻ.
Thiên đức, nguyệt đức được cát thần phù trợ càng thêm tốt, sợ nhất tự gặp xung khắc,bị xung khắc tất nhiên vô lực.
Cấu nghĩa là liên luỵ, giảo nghĩa là trói buộc, cột vào. Mệnh gặp hai sát đó thân bịkhắc sát, nhưng nhiều cơ mưu, chủ về nắm các việc hình phạt hoặc là tướng soái, những việcsát hại. Năm hành đến đó thường gặp chuyện cãi cọ, hình phạt. Cả hai đều gặp càng nặng, gặpmột thì nhẹ hơn, đi với quan sát thì nặng.
Ngày hoặc tuế vận gặp cấu hay giảo là chủ về tai nạn nát thân.
Nếu trong mệnh có phúc tinh thì chủ về cuộc đời phúc lộc dồi dào, có cả cách cục phốihợp thì còn nhiều phúc và sống lâu, vàng bạc đầy nhà. Người bình thường gặp được thì ít nhấtcũng ngày ba bữa no ấm, cuộc sống vô lo. Sao này phần nhiều chỉ về bình an, có phúc chứ không chỉ sự giàu sang.
Quốc ấn quý nhân trong dự đoán nói chung ít dùng, nhưng người trong Tứ trụ có quốc ấn quý nhân và sinh vượng thì hầu hết làm chức to trong nhà nước hoặc nắm quyền quản lý ở cơ quan. Sao này cũng có thể tham khảo để các cơ quan dùng tuyển người giữ chức cao.
Người Tứ trụ có quốc ấn, chủ về thành thực đáng tin, nghiêm tức thanh liêm, quy củ,hành sự theo lẽ công, vui vẻ với mọi người , lễ nghĩa nhân từ, khí chất hiên ngang. Nếu ấn gặp sinh vượng và có các cát tinh tương trợ, không gặp xung, phá, khắc, hại thì không những có thểđứng đầu cơ quan mà còn có khả năng tốt.
Thời xưa trạch trạm là cơ quan văn thư của quan. Trạch mã là công cụ giao thôngtruyền văn thư của quan, cho nên trạch mã thông thường là chỉ về trạng thái động. Hung thầnlà mã, lớn thì tin vui ngất trời, nhỏ thì lợi về động. Hung thần là mã, lớn thì tai vạ ngã lên ngãxuống, nhỏ thì chạy ngược chạy xuôi vất vả. Nếu gặp xung thì như bị roi quất , gặp hợp nhưđược nghỉ chân, gặp lưu niên cũng thế.
Mã gặp tài của lưu niên đại vận thì phát nhanh. “Mã đầu đeo kiếm là uy trấn biên cương” tức nói mã tinh, nhật nguyên lâm ngày nhâm thân hoặcngày quý dậu thì ra trấn giữ biên cương. Mã tinh ở trụ giờ thì người đó đi kinh doanh, hiếuđộng mới lợi cho cầu danh cầu lợi. Sợ nhất là gặp kình dương đầy máu ; gặp thiên lộc, chínhlộc, khôi canh thì thông minh cao quý ; gặp bệnh hại tử tuyệt thì đi giang hồ, bôn ba nơi xa.Quý nhân mà gặp mã tinh thì thăng vượt, người bình thường gặp mã tinh thì long đong.
Trạch mã sinh vượng là người nhanh nhẹn, trí lự, thông biến luôn luôn, bình sinh nhiềudanh vọng ; gặp tử tuyệt thì có đầu không có đuôi, cuộc đời ít thành công mà phiêu bạt vô định ; gặp lộc thì phúc nhiều, gặp sát tương xung, hoặc cô thần, điếu khách, tang môn là ngườixa quê hương để đi theo tăng đạo hoặc buôn bán ; gặp lưu niên thì ốm đau, bệnh tật kinh dị ;gặp quan phù thì bị việc quan.
Mã là động, là tượng bôn ba. Người Tứ trụ gặp trạch mã là người hiếu động, đi khắpbốn phương như quân nhân, thương nhân hoặc làm ngoại giao thường đi công tác. Mã tinh cònlà tiêu chí dự đoán đi nước ngoài. Mã tinh bị hợp chặt thì có cũng như không, mã tinh bị xugnmất thì ngày đi nghìn dặm. Nữ giới gặp mã tinh thì tâm bất an, không ở một chỗ, là tượng bấtlợi.
Có đức quý nhân là tháng đó đức sinh vượng, người có tú quý nhân là hòa hợp với túkhí ngũ hành trong trời đất biến hóa mà thành.
Đức quý nhân là thần giải hung âm dương ; tú quý nhân là khí thanh tú của trời đất , làvượng bốn mùa. Người trong mệnh có đức, tú quý nhân, tú quý nhân không bị xung, phá ,khắc áp thì tính thông minh, ôn hòa trung hậu, nếu gặp xung khắc thì bị giảm yếu. Tóm lại,đức, tú cũng là một loại quý nhân, nó có thể biến hung thành cát. Trong mệnh có nó là ngườithành thật, tinh thần sáng sủa, nghĩa hiệp thanh cao, tài hoa xuất chúng.
Nếu trong mệnh có phúc tinh thì chủ về cuộc đời phúc lộc dồi dào, có cả cách cục phốihợp thì còn nhiều phúc và sống lâu, vàng bạc đầy nhà. Người bình thường gặp được thì ít nhấtcũng ngày ba bữa no ấm, cuộc sống vô lo. Sao này phần nhiều chỉ về bình an, có phúc chứ không chỉ sự giàu sang.
Thập ác như là người phạm mười trọng tội trong luật pháp, không được giảm xá. Đạibại là như trong luật nhà binh giao tranh thất bại, không sót một ai, nghĩa là rất nặng nề. Ngàythập ác đại bại là ngày hung, cổ xưa giao chiến rất kiêng kị, nguồn gốc của nó là từ các sách “Nguyên bách kinh”, “ Thích giáo huyền hoàng kinh” và “ Uyên hải tử bình”. Tôi trong quátrình nghiên cứu phát hiện hai sách đầu chủ yếu là giải thích ngày thập ác đại bại của “ Uyênhải tử bình” mà ra, nhưng trong ngày đại bại lại có thực tiễn hai sách đó ít được dùng, mà hầuhết dùng theo phương pháp tử bình.
Ngày thập ác đại bại là “ kho vàng bạc hóa thành đất bụi”. Nếu gặp cát thần phù trợ,quý khí trợ giúp thì còn tốt, nếu gặp thiên đức, nguyệt đức thì không còn điều kị nữa, hoặc gặp tuế kiến, nguyệt kiến, thái dương điền đầy cũng không còn là kị nữa.
Thiên ất quý nhân là trong năm tháng ngày giờ sinh gặp quý nhân, quý nhân là cát tinh, là sao giải ách, sao cứu trợ. Trong Tứ trụ có quý nhân là gặp việc có người giúp, gặp tai ách có người giải cứu, là sao gặp hung hóa thành cát. Cho nên sách “ Tam mệnh thông hội”nói : “ Thiên ất là thần trên trời, trong tử vi luôn ở bên ngoài cửa, sắp hàng ngang, thái ất làmnhững việc của thiên hoàng đại đế, nên tên gọi là thiên ất. Thần thiên ất tôn quý, tất cả mọi hung sát đều phải lánh xa.”. Sách “ Chúc thần kinh” còn nói “ Thiên ất quý nhân gặp sinhvượng, thì diện mạo hiên ngang, tính tình nhanh nhẹn, lý lẽ phân minh, không thích mẹo vặt,mà thẳng thắn, người ôn hòa đức độ, được mọi người yêu mến khâm phục. Thái ất mà tử tuyệt thì tính tình cố chấp, có thái ất sẽ đỡ. Nếu thái ất đi với kiếp sát thì có uy, đa mưu túc kế. Tháiất đi với quan phù thì văn chương bay bổng, lời lẽ hùng biện. Thái ất đi với kiến lộc thì vănchương thành thật, ân huệ khắp nơi, là người quân tử”.
Thiên ất quý nhân là thần tốt nhất trong mệnh. Ai có nó thì vinh hiển, công danh sớmđạt, dễ thăng quan. Nếu mệnh thừa vượng khí thì có thể đạt đến danh tướng, công hầu. Đạitiểu vận hành đến năm đó thì nhất định sẽ được thăng quan. Tất cả những gì gặp được cái nàyđều là điềm tốt. Phàm người ta đến lúc gặp được thái ất quý nhân thì gặp tin vui, mọi việc đềuthuận. Thiên ất quý nhân lại gặp được thiên đức, nguyệt đức thì quý vô cùng, người đó thôngminh trí tuệ. Quý nhân toạ vào can ngày thì suốt đời thanh cao. Tóm lại trong Tứ trụ có thiên ất quý nhân thì thông minh tháo vát, gặp việc linh lợi, gặp hung hóa cát, là người hào phóng,hay vui vẻ giúp người, tâm tư hiền lành, giao thiệp rộng rãi, được mọi người ủng hộ. Thiên ấtquý nhân tốt nhất là được sinh vượng, được cát tinh trợ giúp,kị nhất là gặp hình xung khắc hạihoặc đất không, vong, tử, tuyệt. Người gặp thế là họa, nguồn phúc giảm đi, suốt đời vất vả.
Thiên đức nguyệt đức là mặt trời và mặt trăng hội hợp chiếu vào, bất cứ sự ám muộinào cũng không tồn tại được trong đó. Cho nên mọi sự cướp bóc, độc ác đều có thần cứu giải.Khí đẹp của thiên đức là thần hoá hung thành cát, đại phúc đức, nếu có thêm lộc, mã, ấn , thuquý nhân giúp thêm, hoặc có cả thiên đức và nguyệt đức thì sẽ có đủ tài, quan,ấn, thực ; nếucòn được tam kỳ ngũ hành sinh vượng, không bị thương khắc phá hại thì hiển đạt vinh hoa,suốt đời không gặp điều gì ngang ngược. Nếu bị tử, thương, phá thì việc gì cũng không thành.Mệnh không có thái cực quý nhân thì bần tiện hung ác, nếu gặp được thiên đức, nguyệt đức làcó cứu giải. Trong hai đức, thiên đức làm đầu, nguyệt đức thứ hai. Nó sẽ biến tài quan ấn thutăng lên gấp bội, làm cho can ngày thêm tốt.
Hai đức này lâm nhật thì chủ về cuộc đời không gặp gì nguy hiểm. Gặp được tướng tinhthì công thành danh toại. Được một đức phù hộ thì mọi điều xấu được giải thoát. Thiên, nguyệt đức quý nhân là thần cứu giải, mọi nạn đều qua. Thơ xưanói : “ Thiên đức vốn là đại cát, nếu gặp ngày giờ là rất tốt, thi cử sẽ đỗ cao, làm việc gì cũngthành công.... Trong mệnh nếu có thiên, nguyệt đức thì cầu việc gì cũng lợi, sĩ công nôngthương làm nghề gì cũng gặp may. Anh em vợ chồng không khắc hại nhau, âm đức tổ tiên dồidào, còn trẻ đã thành đạt”.
Trong mệnh có cả hai thiên, nguyệt đức thì người hiền từ hay bố thí, làm việc theocông bằng, yêu nước thương dân, thông minh trí tuệ, tài cán hơn người , ít bệnh tật, không bịhình phạt, gặp hung hóa cát, gặp nạn được cứu. Người mà tài, ấn, thực đều có, còn có hai đứcthì giảm được điều xấu, phúc được tăng thêm. Người gặp kiêu, sát, thương, kiếp những việcngang trái dễ hóa phúc. Nữ có hai đức thì lấy được chồng đẹp, thông minh con nhà giàu sang,dễ sinh đẻ.
Thiên đức, nguyệt đức được cát thần phù trợ càng thêm tốt, sợ nhất tự gặp xung khắc,bị xung khắc tất nhiên vô lực.
Số tính đại vận = 29.4080902777787; Nhập đại vận lúc 9 tuổi 10 tháng. Tiết Lập xuân bắt đầu 04-02-1976 23:39; Khí Vũ thủy từ 19-02-1976 19:39 đến 05-03-1976 17:47;
da dung day la gio sinh cua toi o duc nho anh xem gium toi cong viec lam an ,hon nhan vo chong co ben vung khong va duong con cai cua toi,anh co the xem chi tiet gum toi ve nguoi vo hien tai.a anh co paypa khong vay
2) Về công việc: nhìn vào tứ trụ, anh không phải là lao động phổ thông, chân tay. Anh thuộc dạng người kinh doanh, hoặc có một thời đi bộ đội hoặc làm trong quân đội, sau này làm kinh doanh. Năm nay công việc của anh bị ngừng lại, bị nghỉ, bị gián đoạn, hoặc bị cắt việc. Và nơi anh làm, người cấp phó có chuyện xấu nên ảnh hưởng hệ thống công việc của mọi người. Nhưng nhìn chung cung công việc năm nay không tốt, làm ăn thất bại thua lỗ, hợp tac sai người.
3) Kinh tế: năm nay thất bại về kinh tế khá nặng, nếu anh sồng ở Chấu Âu, thì sự xấu sẽ giảm đi 10-15%. Kinh tế xấu do mình hợp tác làm ăn sai hướng, sai người mà bị mất. nói chung đây là năm kinh tế hao tán, do làm ăn cũng do hồ sơ nhà đất, và do pháp luật cưỡng chế.
4) Gia đình, tình duyên: là năm liên quan đến hồ sơ xấu: như ly hôn, ký bán nhà, mất nhà, và mình bị đuối về mặt luật pháp.
5) Anh chị em, bố mẹ: năm nay anh chị em có chuyện bất hòa, đòi chia gia tài, tiền bạc, chia đất đai của nhà cha mẹ, có người ốm đau, tinh thần hoảng loạn, đi viện. Mẹ ốm đau (nếu còn) đi viện vì mớ máu, men gan cao, đau đầu. bố thì bị tai nạn hoặc ngã tổn thương xương khớp.
Lưu ý: anh chú ý khoảng giới hạn của năm nhé. vận hạn của Anh năm 2014 được tính từ 11/2014-11/2015 dương lịch nhé.
1) Về sức khỏe của tôi đúng là năm rồi không tốt, đúng như anh phân tích.
2) Tôi có đi bộ đội, sau đế hết nhiệm kỳ thì về buôn bán nhưng đó la thời gian lúc còn trẻ 21,22 tuổi. Hiện giờ tôi đang làm lao động phổ thông và nơi tôi làm có người cấp phó làm việc không tôt nên ảnh hưởng tới mọi người, thời gian nay tôi nghi ốm cũng tương đối nhiều.
3) Về kinh tế đúng là năm nay tôi bị hao hụt về nhà cửa tương đối nhiều.
4) Về gia đình, tình duyên, tôi là lấy vợ 9/2014 và tháng 7/2015 thì đoàn tụ với vợ. phần gia đình tình duyên như trên anh nói đây là sảy ra vào thời điểm 2012 của tôi, là lúc li hôn với vợ đầu tiên.
5) Thời gian này có sự lục đục về tranh chấp gia tài, còn mẹ tôi thì mặt lúc tôi 20 tuổi, mẹ tôi bị ung thư, cha tôi mất năm 2011. Trường hợp trên có tính là cha mẹ vợ không.