CUNG PHÚC VÀ MỘ PHẦN
“Nói về mồ mả (âm đức, âm phúc) của lá số, sách Tử Vi khá dài dòng về thế đất,
mộ huyệt... kết hay không kết? Kết như thế nào? Đương số và dòng họ (dương đức,
dương phúc) được thừa hưởng ra làm sao?... Rất nhiều sách đã đề cập khá cụ thể,
chi tiết nên tôi không đề cập đến vì thực sự không cần thiết. Muốn biết cụ thể,
bạn giở sách Tử Vi, phần cung Phúc - Đức ra đọc, sẽ tiện mà lại dễ hiểu.”. Để
bổ sung những thắc mắc mà bạn đọc muốn biết về mộ phần của cung Phúc, Đào Anh
Dũng tôi xin tổng hợp bài viết với tựa đề CUNG PHÚC VÀ MỘ PHẦN để bạn đọc tham
khảo.
Xem cung Phúc có phần quan trọng biết mình ảnh hưởng phúc đức đời nào, mộ phần
vị ấy ra sao. Đều tùy thuộc vào phúc đức thực tế của vị ấy, lại xem phần mộ,
nếu như ở cuộc đất đẹp khác với cuộc đất lạc lõng. Trong việc này, có vai trò
của vòng Tràng Sinh. Nhưng xin mở đầu trình bày từ các chính tinh để có sự liên
tục.
Vì mộ phần thì có thể di dời, cho nên địa hình mộ trong lá số là địa hình ban
đầu khi chôn cất (theo phong tục không cải táng) hay địa hình khi cải táng đầu
tiên. Ví như cuộc đất lạc mộ, có thể di chuyển đến nơi đắc đạ hơn, thì tất
nhiên số mệnh có sự cải thiện.
Các sao trong cung Phúc có ý nghĩa về đời tiên tổ (mấy đời tính cả bao gồm cả
đời mình, như ông nội là tổ 3 đời), cũng như ý nghĩa hình thể, để hiểu hết hình
thể cung Phúc, nên có kiến thức vềphong thủy nhất định.
I. CÁC CHÍNH TINH:
1. Tử Vi:
- Mộ thượng tổ (tổ cả họ, chi họ). Nếu hãm: viễn tổ, có khi là tổ xa xôi hiện
gia phả không cho biết rõ ràng được. Dương mộ.
- Có sơn khí khá lớn, tùy vùng mà định đoạt, nếu là vùng sơn cước, ắt có khí từ
tổ sơn to lớn triều lại, nếu trung du, đồi núi vừa phải, cũng có sơn phong chủ
chốt của vùng ấy, nếu xét bình địa thì có Thủy khí triều tụ, và có chỗ đột khởi
vì theo phong thủy thì "cao nhất thốn vi sơn", nghĩa là có gờ đất nổi
dậy, khá rõ với địa bàn bàng phẳng chung quanh. Mộ có sơn rõ rệt thì sơn đó
thuộc ThổTinh.
+ Tử đắc địa, không có cách xấu xâm phạm: mộ tổ đã xa mà còn phát.
+ Tử gặp Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp: mộ thất lạc, hoặc có người "chôn
ké" cuộc đất bên mộ. Nếu mộ thất lạc, có Lục sát mà có thêm Tuần Triệt:
tìm lại được.
+ Tử ngộ Triệt: mất mộ, chết không chỗ chôn, hay sa vào hoang địa.
+ Tử Mão Dậu: mộ để cạnh đền chùa, thờ tự, hay chôn đất chùa.
2. Liêm Trinh:
- Mộ 7, 8 đời, thuộc về cao tổ (có nhà cho mộ chú, bác không phổ biến)
- Đất Hỏa tinh, vùng núi thì sơn cao, nhọn, ngọn lởm chởm (nếu thêm Hỏa Tinh
hay các sao Hỏa càng rõ). Về bình địa: đất khô, gồ ghề, có màu vàng đỏ, nổi
cao. Dương mộ.
+Liêm gặp Tồn,hay Tướng: mả đắc địa.
+ Liêm ngộ Sát, Phá, kiêm hao sát tinh: mộ đất bỏ hoang vu, ít coi sóc
3. Thiên Đồng:
- Mộ tổ 4 đời. Đắc địa, cách đẹp: 3 đời.
- Mộ để đất bình địa,lại có thủy khí (nước), tượng trưng: chỗ đất lõm (đê nhất
thốn vi thủy), kinh nghiệm đa phần cho thấy có nước thực sự gần mộ. Về đồng
bằng: chôn đất thấp. Về trung du, miền núi: đất bình nguyên, rải rác tinh phong
thấp nhỏ thuộc về Thủy Tinh (uốn nếp lòng vòng). Dương mộ.
4. Vũ Khúc:
- Tổ 5 đời.
- Đất cao ráo, khô, thóang đãng, hơi trống, nổi khum khum. Vùng đồi núi: núi
cao, mỏm tròn trịa, trông như chõ, như chuông, lại giống như ngọc ấn. Dương
mộ.
+ Vũ - Triệt: hành lộ khùng khuỳnh quanh mộ: ý nói có đường đi uốn khúc bên
cạnh.
+ Vũ ngộ Tham Khoa: đất phát anh hùng, họ nhiều tay anh hào.
+ Vũ - Tham: phát về võ, đi xa càng phát.
+ Gặp Kình Đà Kị Hình Khốc Hư: cuộc đất hỏng.
+ Tuần - Triệt- Phá: cuộc đất không toàn vẹn, nhưng phát thủ công kĩ thuật hay
tay.
5. Thái Dương:
- Mộ ông (3 đời), hãm: 4 (ông cố). Sách bàn thêm, nếu ông còn thì có đắc địa
vẫn là ông cố; nếu miếu địa, không sát tinh: mộ cha, đồng thời phải thân chinh
đến khu vực nghĩa địa xem có phải mộ tốc phát hay không, mới có thể
quyết.
- Đất bằng phẳng, quang đãng, phương kì, thuộc dương long dương hướng. Thảy Dương
mộ.
+ Tuần triệt: đất hoang lạc.
+ Hóa Kị: chôn sai thế, sai hướng.
6. Thiên Cơ:
- 6 đời.
- Đất phát mộc, cỏ cây xanh tươi. Dương mộ. Đất bình nguyên.
+ Cơ - Triệt - Toái: hậu đầu mộc xiên (tinh phong hình Mộc đâm chĩa sai hướng
về sau mộ) họ hay hạn chết chóc, gỗ đè, ngã cây, ngã lầu, về hạn cũng rất cẩn
thận.
+Thai Dưỡng Cái Hồng: phát.
+ Dương Đà: hết phát.
7. Thiên Phủ:
- Mả tổ (đóan như Tử Vi). Hãm: viễn tổ không xác định.
- Cuộc đất lớn. Vùng núi: cuộc tổ sơn. Không nhất thiết Thổ Tinh. Cũng dương
mộ.
Cách cục: xem như Tử Vi.
8. Thái Âm:
- Mộ bà nội. Miếu (mẹ đã mất) + quan sát thực địa tốc phát: mộ mẹ.
- Phúc phát chỉ ứng dụng cho ngành thúc (chi dưới), người em, và người thuộc
mệnh Kim hay sao Kim thủ Mệnh.
- Đất uốn cong, chạy dài, phì mãn, hình như cặp mày (bán nguyệt), cuộc đất
trong mắt thường hay mắt phong thủy đều thấy hữu tình, mĩ miều. Âm long, âm
hướng.
+ Tuần Triệt: hoang vu, lạc lõng.
+ Kị: chôn sai cách cục, úng thủy.
+ Khốc Hư Đà Kình Hình Kị hay lạc Không Vong: phù hoa giả tạo, chủ sinh ra
người ưa phù phiếm,văn chương sáo rỗng, có xu hướng đồng bóng mê tín, mắt kém,
thực chất không phát.
9. Tham Lang:
- 6 đời. Lạc nhàn: 7
- Đất khuyển hình (con chó), tức cũng mộc tinh. Sắc đen. Nhiều cây cỏ. Vùng
núi: tinh phong cao dày, mộc hình (dù Tham Lang thuộc Thủy)
- Tham Vũ Khoa Quyền: mộ phát, song toàn văn võ.
- Ngộ Tử, Vũ: phát hay lắm.
- Không - Kiếp hay Tuần Triệt: cao thấp không đều, lổn nhổn, mạch bị cắt, nhưng
không tác họa ghê gớm gì.
- Ngộ Liêm: xương cốt đã hư nát rồi, thậm chí mộ chôn tượng trưng, hoặc mộ để
đất rất hung hiểm, đáng ngại.
10. Cự Môn:
- 7 đời.
- Bình địa: đất vuông vức như giải chiếu, sắc đất vàng. Cao nguyên: đồi núi
vuông vức, mỏm bằng. Thường gần công sở, công trình công.
11. Thiên tướng:
- 5 đời.
- Ở đâu cũng vậyđều thuộc đất bằng phẳng và cao, cuộc đất trông như cái ấn (con
dấu cổ).
Nếu không hãm đều là mộ phần chôn cất đúng hướng đúng vị.
+ Ngộ Phá Triệt: xương tiểu lẫn lộn cả đất xấu, hư nát.
12. Thiên Lương:
- 7, 8 đời.
- Đất rời rạc khô nỏ, pha cát sỏi. Đắc, không bị xâm phạm: mộ phần chôn kiểu
đất có hậu chẩm rất tốt (Chẩm: "gối", chữ này viết rất giống chữ Trữ
"thoi dệt vải "nhưng không phải chữ ấy). Đây là 1 cách mộ đẹp. Tất cả
miếu vượng đắc hãm: đất có hình xà (không phải xà là "rắn" mà là
"xà nhà" (thượng lương): có gờ đất nổi chạy dài.
13. Thất Sát:
- mà xa đời (cũng 7, 8 đời).
- đất khô, nóng, sắc đỏ, cuộc đất tròn thẳng và dài. Kim hình kiêm Hỏa.
+ Sát - Phá - Phục ngộ Triệt: gây nên họa chiến chinh (tử trận) cho con
cháu.
+ Cùng Tử vi - Khoa - Quyền: long hổ chầu phục, hổ lớn hơn long, chủ phát về
võ, anh hùng.
+ Không, Kiếp, Đà, Diêu, Tuế: chỉ có tả thanh long, nghèo hèn, họ hiếm
người.
14. Phá Quân:
- xa đời.
- đất tản lạc, hình thểvô địch, sơn phong khó hiện như thù ti mãtích, hay bị
sụt lở. Xếp vào Thủy tinh bên phong thủy.
+ Triệt - Phá: mộ ven đường, gọi là "lộ bàng mộ".
II. TRUNG TINH:
1. Văn Xương: đất cứng, hình
tròn
2. Văn Khúc: thủy đáo đường (thủy
lượn quanh mộ)
4. Thiên Khôi: hình mũ, nổi cao, hình
đầu người. Phát văn.
5. Thiên Việt: đất hình búa rìu,
phát võ.
Các sao trên đều chủ về mộ tổ 3 đời (ông nội), nếu tụ tập đông đủ Khôi Việt
Xương Khúc: ông nội để phúc to, nhà ấy con cháu khiến tông đường rạng rỡ.
6. Văn Tinh: mộ có bút sơn, thường
là bút học vấn hơn là bút phù thủy.
7. Tả phù - Hữu bật: đất vừa phải
không cao, không có đồi núi to lớn, hình như vành khăn vấn đầu ngày xưa, hay
đồi núi lờ mờ nhỏ bé.
8. Lộc Tồn: vuông vắn cân phương,
sách nói cuộc đất thương khố (kho)
9. Hóa Lộc: Hình Cờ, hình Thương
Khố. Có sách nhận nhầm "Thương" (kho) này với binh khí (lưỡi thương:
1 loại binh khí hay thấytrong Tam Quốc).
10. Hóa Khoa: cuộc đất có
bảng.
11. Hóa Quyền: cuộc đất có "an
bản" (tức yên ngựa), có người đã lưu truyền là"văn bản" là không
hiểu hình gì, có nhẽ do nghe nhầm.
12. Kình Dương: - Mộ có cách voi
phục. Đắc: có bút sơn loại tốt. Chủ phát khoa bảng, ăn học thành tài. Hãm: tinh
phong dòm ngó tức như con chó đá (thạch đầu khuyển) tức mỏm nhọn lởm chởm chầu
chực vào, hay gây sự va chạm và khó khăn, có khi hay phát những "tài
lạ" như phù thủy, đạo sĩ, mê điều huyền hoặc (ví như phát các ông nói ra
các đạo rất kì quặc), cũng có khi phát bút họa sĩ, trừ dư là họ tài văn bất
mãn, thi khó đậu, bất đắc chí.
- Có thêm Hỏa Linh Tấu: bút này mới
là hay và sinh văn tài hay chữ lắm.
- Hồng Loan, Kình dương: thế đất mày
ngài (nga mi) tức bán nguyệt. Gọi là "nga mi tác án"
- Kình hay Đà ngộ Không: có mả đạo
táng, tức là có mả chôn trộm (người khác ké trộm)
13. Đà La: hình răng lược, pha
cát.
- Đà ngộ Mộ, Dưỡng (đ.c): có người để trộm mả
- tùy chính tinh, nếu hãm, hoặc gia Không Kiếp: mả để sai lạc
14. Hỏa - Linh: đất khô, nóng, sắc
đỏ, mả phát hình bút. Có bút sơn triều tấu, nhất là Linh tinh, sinh bút hay
lắm, nhưng chính tính phải miếu vượng, không ngồi thủy địa.
15. Không - Kiếp: Hãm địa xảy ra các
trường hợp: mất mộ (thất lạc), chết hiểm không được hương khói, mộ âm hồn, mả
chôn sai quá đỗi lạc đất hung hiểm, mả chôn sơ sài bên đường, thậm chí không
được chôn cất. Đắc: có mất mộ. Trừ dư là mộ phần khô khan nóng nảy quá, không
có thủy khí
- Ngộ Kiếp Không hay Tuần triệt: mất mộ vùng hoang địa.
- Kiếp Không Khốc Hư Hình Kị (hay Kình Đà): bạch tang.
- Quan phù - Tử phù: tổn thọ, lạc mộ
- Không kiếp Mã: mả lạc vô cùng, có long có hổ nhưng cả 2 đều ngoảnh mặt đi,
sinh người ăn chơi, phiêu dạt, thích giang hồ tứ xứ, hoặc đi xa sinh kế vất vả,
hay chết đường, tai nạn giao thông (gọi là lộ tử).
16. Đào Hoa: mả nổi lùm như bình
bát.
17. Hồng Loan: bán nguyệt, các cách
cục chim muông trong phong thủy. Thêm Thanh long là có thứ thủy (nước) trong
sạch tụ thủy.
18. Long trì: gần ao chuôm, hay
giếng
19. Phượng các: gần nhà của, lâu
đài, đất đỏ, cách cục chim muông.
- Phát về mộ mới, tức chữ gọi là"tân phần" (giống như Hỉ Thần, Hoa
cái)
20. Quang - Quí: có ân nhân đê mộ
cho, có nhân đức tổ tiên phù hộ: "ân quang báo ứng tiền nhân ân quang sinh
nghĩa 10 phần báo ân"
21. Quan - Phúc: Mả chôn gần đền
miếu chùa chiền thần hoàng, nơi thờ tự nói chung, nhà có phúc lớn. chịu ảnh
hưởng Mả 2 đời. Đất có địa linh.
- Quan Đà Kị: mả táng hắc vân, tức
kiểu mộ u ám, cũng hay sinh đầu óc ưa huyền bí, u hoặc, đồng bóng.
22. Thai - Tọa: trên trời sao Tam
Thai có 3 ngôi, sao Bát Tọa 8 ngôi, rất đẹp, nhưng cổ nhân nói mộ được cách Tam
Thai Bát Tọa như trong sách phong thủy mô tả e rất khó, vì theo sách phong thủy
cuộc đất Tam Thai - Bát Tọa rất khó kiếm. Cuộc đất Thai Tọa này cũng là chỗ
"đấng vàng" mà sấm Trạng Trình có nói, vậy kiểu đất này hiếm hoi lắm.
Thực tế Thai Tọa chỉ là mộ yên ổn thôi.
23. Hoa Cái: hình lọng, hình hoa,
hình bát. Cũng chưa chắc chắn, chỉ là cuộc đất đẹp đúng kiểu cách nói chung.
Phát mộ mới. Cung Phúc có cách tiền Cái hậu Mã rất đẹp. Mả ấy phát nhanh lắm,
làm sang (phát quí hơn phú).
24. Thai Phụ: tamgiác
25. Phong Cáo: vuông
26. Thiên hỉ: đất phù sa, đất bãi
(bằng sa) mả phát, phát về mộ mới.
Trên đây là những lời luận còn rất đơn sơ, thiếu sót, muốn xem tinh hơn phải
kết hợp thêm kiến thức phong thủy, có thể xem bản đồ 12 cung Tử Vi tương tự như
bản đồ phong thủy, lại tham khảo tính chất ngũ hành, ví như sao hành Hỏa thì
tinh phong cũng thuộc Hỏa, hình thế địa lí là Hỏa, lại căn cứ âm dương của sao
mà định là dương long hay âm long, dương hướng hay âm hướng.
Về địa đồ, lấy 2 cung giáp làm tả hữu, lấy cung xung chiếu làm minh đường, tam
hợp làm cách cục. Lấy sao Thanh long làm Tay Long, sao Bạch hổ làm Tay hổ, coi
ở phương vị nào tất long hổ ở về phương vị ấy.
Lại lấy Tràng Sinh làm khởi tổ, lấy Thanh long làm Long hành (long đang đi),
nghĩa là chỗ đó chưa để huyệt được.Xem đến phương nào nhập Mộ là khí tụ,lại xem
có sao Thủy cung Thủythì mới có ThủyKhí.
Bất cứ đắc vượng thế nào, cần có Phượng Cái và nhất là Song Hỷ thì mộ mới kết
phát rõ rệt.
Hiện nay thời thế đổi khác, không mấy ai xem về phong thủy mộ phần, và điều
kiện xã hội cũng không cho phép, nhưng về phần mộ sợ nhất là Mộc Dục là kết nạp
Bại Thủy, còn đáng sợ hơn Tử.
Người xưa có luận về Vòng Tràng sinh và đại hình phong thủy, nhưng cốt yếu chưa
phải ở đấy, mà ở chỗ ảnh hưởng rộng rãi về cõi phúc ra sao, rất là quan
hệ.
1. Tràng Sinh: Tràng Sinh - Đế Vượng
ta hay nói đa đinh. Nhưng tràng sinh là chỗ ngũ hành sinh ra, khí vẫn đương non
nớt và chủ sự di động, không hợp với cung Phúc. Về hình thế hay nói có thủy bao
bọc, nhưng xét đây chưa phải chỗ thủy tụ, cũng chỉ là chỗ thủy đương xuôi chảy.
Xét sơn khí, đây cũng chưa phải chỗ núi dừng kết huyệt.
Về nhân sinh, cung Phúc có Tràng sinh tất sinh người có trí, lại năng động, ưa
điều tiến bộ, nhưng chưa chu đáo, cuộc sinh kế tuy có sáng kiến mở mang, song
hao sức bươn chải, làm nhiều hơn tụ. Mệnh nhị hợp với tràng sinh lại tốt, hay
may mắn khỏe lẹ, được phúc đức phò trợ. Trừ dư không được hưởng phúc tổ nhiều,
mả có kết phát cũng người khác được hưởng.
2. Mộc dục: Phúc bại, ưa sắc dục,
trong họ hay có tình duyên ngang trái. Bản thân cũng vất vả, đời trôi nổi, coi
thêm cung Tật để định bệnh sắc dục, yếu sinh lí, hay mắt kém, thận suy, phát
tác vào tuổi trung niên. Khí nhà không còn vượng. Tính nết bồng bột
3. Quan đới: Khí nhà đã bộc lộ khởi
từ vị trí này. Chủ mạnh mẽ về đường thanh quí, nhưng khả năng giải họa chỉ bình
thường thôi. Bản thân triển vọng, có bôn ba cũng thành công đã hẹn.
4. Lâm quan: Là ngũ phúc đáo đường.
Tính giàu độc lập, cơ nghiệp bền vững, lâu dài, đảm đương cán đáng. Chủ phú quí
thọ, giải họa rất mạnh.
5. Đế Vượng: đừng tưởng Vượng tại
Phúc là hoàn mĩ. Các đời đều có đế vượng trong Phúc thì họ đa đinh, nhân mãn
nhưng bất tài, dòng họ không lấy gì làm phát. Đương số nếu cung Mệnh đẹp thì
thành công sớm nhưng dễ chịu cảnh chóng tàn. Về phúc thọ vẫn được thừa hưởng, khả
năng giải họa vẫn có, thời không được như Lâm quan thôi.
6. Suy: mả này còn phát. Nếu cung
Mệnh đẹp không hề gì, vẫn thành công như thường.
7. Bệnh: số cực, không có phúc phò
trợ
8. Tử: Không phải Tử mà xấu, vẫn có
phát nhỏ. Thường có âm đức vừa phải, nhưng kị đi với Tử phù.
9. Mộ: phúc đẹp, mệnh đẹp thì phát
phúc, âm đức mạnh, giải họa.
10. Tuyệt: mộ vô khí, bị xâm hại.
Đương số thân tự lập, nhưng chí lớn nếu xét mệnh đẹp, không thì cố sức vẫn bất
toại. Ở đây phải biết nếu sao trong cung ấy đắc vượng thì không tuyệt
nữa.
11. Thai: Cách này phù hợp kẻ Sát
Phá Tham và Không Kiếp đắc vượng. Chính tinh ở Phúc vượng thì số rất hay, có mộ
mới kết phát, phúc phát độ trung niên, khi đó lên rất chóng. Cung Phúc sao
chính tinh hãm gia sao xấu thì cả đời bất hiển. Chính tinh hãm, thêm có trung
tinh đắc cách phò trợ, mệnh đẹp vẫn nên quan nhưng tai họa bất ngờ, bệnh tật và
không hạnh phúc về nhân sinh.
12. Dưỡng: là cách phúc đẹp, ngay cả
khi sao Tuyệt thủ mệnh vẫn không phải mệnh tuyệt khí, do đó mà ta thấy nhiều
người mệnh có sao Tuyệt vẫn hiển đạt bình thường. Đây ví như khí phúc còn đương
vun vén tài bồi.
Những sao kể trên phải kết hợp với chính tinh, cách cục các sao, lại xem thêm
cung Mệnh cho việc luận đóan được chu tất. Ví như Tràng Sinh - Đế vượng cư phúc
chưa phải là hay, nhưng nếu chính tinh hãm địa thì Sinh vượng có thể phù nó,
nhưng chính tinh miếu vượng địa thì Đế Vượng Tràng Sinh ở đây lại tiết giảm sức
của sao đó, hay chóng nở chóng tàn. Sao lạc nhàn gặp Lâm quan, Dưỡng, Quan đới
thì không nhàn, sao miếu vượng gặp các vị này thì duy trì sức được bền lâu. Cứ
trên nguyên tắc ấy không câu nệ đắc hãm thái quá. Đem áp dụng vào cung Mệnh
cũng vậy, nhưng các sao vòng Tràng Sinh ở cung Mệnh lại ngụ ý khác, xem ra cũng
tương tự Tử Bình, như Lâm quan thì hay khoác lác, đại ngôn, ham hố địa vị, Quan
đới tuy hiển nhưng nếu thêm Kiếp sát thiên hình là dây oan, thêm Đào hồng kị
thì tình oan trái... Đó là việc riêng của cung Mệnh, không phải ở Phúc.
(BÀI NÀY MANG TÍNH SƯU TẦM, TÁC GIẢ Vincent Nguyen ĐÃ CÓ CÔNG NGHIÊN CỨU. TÔI THẤY CÓ GIÁ TRỊ THAM KHẢO, NGOÀI SỰ THÔNG THƯỜNG CỦA SÁCH VỞ, NÊN TÔI ĐĂNG ĐỂ MỌI NGƯỜI CÓ THÊM TƯ LIỆU KHẢO CỨU)