Chương 2 - Con cái
Truyền một đời gốc cành Tử tức,
Xem hỉ thần và Sát liền nhau.
Nguyên chú: Nói chung dựa vào Quan mà xem con cái. Như hỉ thần là Quan tinh, con cái hiền tài, hỉ thần và Quan tinh không đố kị nhau cũng tốt, nếu không là không có con, hoặc là không ra gì, hoặc là có khắc. Nhưng xem Quan tinh, lại phải Hoạt pháp, như Quan khinh phải cần công ở dân; Sát trọng Thân khinh, chỉ cần Ấn Tỉ; không có Quan tinh, chỉ luận Tài; nếu Quan tinh trở ngại, phải cùng phù xung phát; Quan tinh tiết khí quá trọng, cần hội hợp trợ xa; nếu Sát có thân khinh mà không có chế, là nữ nhiều.
Nhâm thị viết: Thuyết lấy Quan tinh là con, cuối cùng sợ có phạm thượng. Nói Quan là quản lý vậy. Triều đình thiết lập quan, quan quản lý vạn dân, tất không dám làm bậy, tuân thủ quy củ. Gia đình tất thủ lĩnh là quản lý, động tác ra vào, đều tuân theo tổ phụ dạy bảo vậy. Không cúi phục quan quản lý, thì là nghịch tử; vậy nói đến mệnh lý, sao có thể lấy dân làm con mà còn phạm thượng sao? Chẳng lẽ luận mệnh lại có thể mà vua không có cha ư? Ngạn ngữ nói: “ Cha phải chuyên quyền ở con ”, nếu lấy Quan làm con, cha lại lấy con cai quản, cho thấy cha không được chuyên quyền vậy, cho nên lấy khắc cha khắc mẹ là đúng, thì có lý sao? Nay sửa đổi lấy Thực Thương làm con. Lời xưa: “Thực thần có thọ vợ nhiều con, giờ gặp Thất Sát vốn không con trai”, “Thực thần có chế định nhiều con trai”, hai thuyết này, có thể nói xác thực làm bằng chứng vậy. Nhưng chỗ này cũng chỉ là Tử pháp, nếu trong cục không có Thực Thương không có Quan Sát, thì luận làm sao? Cho nên mệnh lý không thể chấp nhất, nói chung biến thông là đúng, trước đem Thực Thương mà nhận định, sau đó sẽ xem nhật chủ vượng suy, tứ trụ hỉ kỵ là dụng. Cho nên “Xem hỉ thần và Sát liền nhau”, là luận rất biến thông vậy.
Như nhật chủ vượng, không có Ấn thụ, có Thực Thương, tất nhiều con trai.
Nhật chủ vượng, gặp Ấn thụ, Thực Thương khinh, tất ít con.
Nhật chủ vượng, Ấn thụ trọng, Thực Thương khinh, có Tài tinh, dự phòng con nhiều mà hiền.
Nhật chủ vượng, Ấn nhiều tất không con; nhật chủ nhược, Thực Thương trọng, không Ấn thụ, cũng không có con.
Nhật chủ nhược, Thực Thương khinh, không có Tỉ Kiếp, tất không có con.
Nhật chủ nhược, Sát trọng, Thực Thương khinh, Tài tàng mà suy nhược, tất nhiều con gái.
Nhật chủ nhược, Thất Sát trọng, Thực Thương khinh, có Tỉ Kiếp, con gái nhiều con trai ít.
Nhật chủ nhược, Quan Sát trọng, không có Ấn Tỉ, tất không có con trai.
Nhật chủ vượng, Thực Thương khinh, gặp Ấn thụ, gặp Tài tinh, con ít cháu nhiều.
Nhật chủ vượng, Ấn thụ trọng, Quan Sát khinh, có Ấn thụ, gặp Tài, có con tất nghịch.
Lại có nhật chủ vượng, không có Ấn thụ, Thực Thương ẩn, có Quan Sát, tất nhiều con.
Lại có nhật chủ vượng, nhiều Tỉ Kiếp, không có Ấn thụ, Thực Thương ẩn, tất nhiều con, ý là mẫu đa tử ác vậy.
Cho nên mộc đa hỏa tắt, kim khắc mộc thì sinh hỏa; hỏa đa thổ tiêu, thủy khắc hỏa thì sinh thổ; thổ trọng mai kim, mộc khắc thổ thì sinh kim; kim đa thủy thấm, hỏa khắc kim vừa thủy khắc hỏa thì sinh thủy; thủy đa mộc trôi, thổ khắc thủy thì sinh mộc. Lấy Quan Sát làm con, cũng là nói chỗ này, cho dù rõ ràng cũng lấy Quan Sát là con.
Nói chung, thân vượng lấy Tài là con, thân suy lấy Ấn là con, chỗ này ta đã thử nghiệm, cho nên can đảm sửa đổi, cẩn thận suy, không có không ứng vậy.
233 - Tân Sửu - Tân Sửu - Mậu Tuất - Quý Sửu
Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu/ Bính Thân/ Ất Mùi
Tạo này nhật chủ vượng, Tỉ Kiếp nhiều, thông căn năm tháng cùng thấu Thương quan, Sửu thuộc thấp thổ, có thể sinh kim tích thủy, Tuất là hỏa khố, nhật chủ tọa hỏa khố, không đến nỗi bị băng hàn vậy. Là lấy nông nghiệp làm giàu, càng hỉ vận chạy phương Tây không nghịch, tôi tuy đoán nhiều con, thật ra không dám định số lượng, hỏi ý kiến, sinh con từ lúc 16 tuổi, mỗi lần sinh con, liên tục sinh 16 đứa con, cũng không có tổn thương. Chỗ này vì mệnh thật đẹp, Ấn tinh không hiện, Tân kim sáng rõ không tạp mộc hỏa là đẹp vậy.
234 - Quý Hợi - Giáp Tý - Đinh Dậu - Quý Mão
Quý Hợi/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi/ Mậu Ngọ
Tạo này Quan Sát nắm lệnh, ngại là thấu can Giáp mộc, không thể Tòng Sát, buộc phải xem Sát vượng dụng Ấn, thì kỵ Mão Dậu gặp xung, khử đi Giáp mộc vượng địa. Vợ sinh ra 8 con gái, vợ nhỏ cũng sinh gái, hoàn toàn không có con trai. Chỗ nói thân suy lấy Ấn hòa, là do chỗ này Tài tinh phá Ấn vậy.
235 - Ất Mùi - Tân Tị - Mậu Tuất - Đinh Tị
Canh Thìn/ Kỷ Mão/ Mậu Dần/ Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi
Mậu thổ sinh vào tháng Tị, trong trụ hỏa thổ vốn vượng, Tân kim lộ mà vô căn. Lại thêm sinh giờ Tị, Đinh hỏa độc thấu khắc Tân kim, trong cục không có thấp khí, càng lo can năm có Ất mộc, trợ hỏa cháy mãnh liệt, cho nên khắc hai vợ, sinh 12 con, hình chết 10 đứa. Hiện còn 2 con.
236 - Mậu Tý - Quý Hợi - Nhâm Tuất - Giáp Thìn
Giáp Tý/ Ất Sửu/ Bính Dần/ Đinh Mão/ Mậu Thìn/ Kỷ Tị
Nhâm thủy sinh vào đầu mùa đông, hỉ là không có kim, độc thấu Thực thần, cho nên chữ nghĩa ít thành. Giáp Dần nhập học, có nuôi dưỡng 10 đứa con. Không có vợ, kỳ diệu là không có Tài tinh; thi Hương bất lợi, không có chỗ Dần Mão vậy. Tạo này nếu như hoán đổi Tuất thổ thành mộc, thì thanh vân đắc lộ vậy.
237 - Canh Dần - Bính Tuất - Tân Hợi - Tân Mão
Đinh Hợi/ Mậu Tý/ Kỷ Sửu/ Canh Dần/ Tân Mão/ Nhâm Thìn
Tân kim sinh vào tháng Tuất, Ấn tinh nắm lệnh; lại có Dần củng Tuất sinh Bính hỏa, Tỉ Kiếp không thể sinh Hợi thủy, lại còn có Hợi Mão củng mộc, tứ trụ đều thành Tài Quan, 2 vợ 4 thiếp sinh 3 con trai đều khắc, sinh 12 con gái lại khắc hết 9. Vẫn hỉ thu kim có khí, gia nghiệp hưng thịnh.
238 - Đinh Dậu - Đinh Mùi - Mậu Tuất - Đinh Tị
Bính Ngọ/ Ất Tị/ Giáp Thìn/ Quý Mão/ Nhâm Dần/ Tân Sửu
Thổ sinh cuối mùa hạ, Ấn thụ trùng điệp, tứ trụ hoàn toàn không có khí thủy, táo thổ không thể tiết hỏa sinh kim, khắc 3 vợ 5 con. Đến Sửu vận thấp thổ, hối hỏa sinh kim, lại hội kim cục, mới nuôi được 1 con trai.
Bởi vậy xem tạo số, Thực thần Thương quan là con cũng rõ ràng. Phàm tử tức (con cái) có hay không, trong mệnh có lý nhất định, trong mệnh con chỉ có 5 số, thủy 1 - hỏa 2 - mộc 3 - kim 4 - thổ 5 vậy; nắm lệnh thì gấp đôi, hưu tù thì giảm nửa, ngoại trừ gia giảm mà thừa ra, cho nên nắm vững chỗ này vậy.
239 - Tân Mão - Tân Mão - Giáp Thìn - Đinh Mão
Canh Dần/ Kỷ Sửu/ Mậu Tý/ Đinh Hợi/ Bính Tuất/ Ất Dậu
Tạo này xuân mộc hùng tráng, kim thấu vô căn, hỉ Đinh hỏa thấu lộ thương khắc Tân kim, cho nên đến vận Kỷ Sửu, Mậu Tý, chẳng những có con không nuôi dưỡng, mà còn Tài đa phá hư. Vận Đinh Hợi, củng mộc mà thiên can thấu Đinh hỏa, người và của cùng có ích; vận Bính Tuất càng đẹp, sinh 5 trai, gia nghiệp tăng mới. Bởi vậy xem mệnh, phàm dụng thần bát tự là Tử tức tinh, như dụng thần thuộc hỏa, thì con tất ở vận mộc hỏa, hoặc được lưu niên mộc hỏa; như không đúng được niên vận mộc hỏa, nhất định tử tức khép ở trong nhiều mộc hỏa, hoặc là nhật chủ mộc hỏa, nếu không thì khó mang, thử nghiệm nhiều lần đều đúng. Nhưng dụng thần ở bên trong mệnh, vật không có Thê Tài Tử Lộc, mà cùng thông thọ yểu, đều tại một chữ dụng thần mà định, có thể không chú ý chăng?