Toàn cảnh cõi trời Địa Phủ và hành trình luân hồi sau khi
thoát tục cõi trần
Cõi trời địa Phật hay còn gọi là
Địa phủ. Cõi trời địa Phật cũng giống như là một hành tinh, giống như Trái đất
mà con người đang sinh sống. Gọi là cõi trời địa Phật vì nó là một cõi trời của
dòng đạo Phật, đạo Thiên chúa giáo cũng có cõi trời Địa phủ của dòng đạo họ,
đạo Hồi cũng có cõi trời Địa phủ của dòng đạo họ. Cõi trời này rất xa trái đất,
con người không thể dùng phương tiện để di chuyển đến được.
Địa phủ được ví như là quán trọ
đêm cho hành giả nghỉ ngơi, dưỡng sức, đúc kết kinh nghiệm sau một ngày vất vả
trên hành trình đi tìm sự giác ngộ viên mãn. Trên hành trình đi tìm sự giác ngộ
viên mãn, hành giả sẽ phải trải qua nhiều kiếp tu hành, mỗi kiếp tu hành cũng được
ví như là một ngày hành giả đi đường vất vả, và khi hành giả thoát tục cõi trần
trở về Địa phủ thì Địa phủ được ví như là quán trọ đêm cho hành giả sau một
ngày vất vả. Cõi trời Địa phủ cũng được hiểu là cõi tạm cho hành giả trên con
đường tu hành trong vô lượng kiếp trên nhân gian.
Cội nguồn
của cõi trời Địa phủ
Cõi trời Địa phủ được hình thành
sau khi Đức Phật Thích Ca truyền được chân lý vạn vật và chân lý giác ngộ xuống
nhân gian, sau khi ngài và các vị đệ tử của ngài nhập diệt trở về, có nhiều vị
đệ tử của ngài đắc phẩm vị Phật và phẩm vị Bồ tát. Vì thấy có nhiều Tuệ linh
chuyển hóa được tầng năng lượng trong tâm để duy trì phát triển sự sống nên
Đấng tạo hóa đã tạo ra sự sống ở một cõi trời mới, gọi là cõi trời Địa phủ,
ngài lập ra các cảnh sống, lập ra mô hình bộ máy quản lý cho cõi trời Địa phủ.
Đức Phật Thích Ca lập ra phương pháp giáo hóa bằng Chân tâm cho các Tuệ linh và
linh hồn sau khi thoát tục cõi trần trở về Địa phủ để tu tập trước khi luân hồi
trên nhân gian.
Sau khi Đấng tạo hóa và Đức Phật
Thích Ca tạo lập sự sống và mô hình cũng như phương pháp giáo hóa cho cõi trời
Địa phủ, có rất nhiều các Tuệ linh đã đắc phẩm vị Phật và Bồ tát phát nguyện
với hai ngài để trở về cõi trời Địa phủ quản lý và giáo hóa chúng sinh cõi trời
đó bằng tầng năng lượng giác ngộ mà họ đã đạt được. Như vậy cõi trời Địa phủ do
hai ngài tạo hóa ra, và các Tuệ linh là đệ tử của Đức Phật Thích Ca phát nguyện
lực về cai quản và giáo hóa cõi trời đó. Các Tuệ linh cai quản cõi trời Địa phủ
vì chưa đắc được bộ lọc năng lượng nên vẫn phải luân hồi xuống nhân gian để
trải qua hết các kiếp nạn khổ đau để cải tạo thành công bộ lọc năng lượng viên
mãn.
Đạo Thiên chúa cũng có cõi trời
Địa phủ riêng, và để lập ra cõi trời Địa phủ của đạo Thiên chúa thì Đấng tạo
hóa đã cùng ngài Jesu tạo lập ra mô hình và bộ máy quản lý cũng như phương pháp
giáo hóa riêng theo giáo lý của dòng đạo Thiên chúa. Đạo Hồi cũng như vậy, họ
cũng có cõi trời Địa phủ riêng và cũng là do Đấng tạo hóa cùng ngài Mohammed
tạo lập ra.
Mục đích
tạo lập cõi trời Địa phủ:
Việc các dòng đạo lập ra các cõi
trời Địa phủ riêng nhằm dùng giáo lý giáo hóa cho các vong linh để họ nhận thức
được việc họ đã tạo ra nghiệp lực trên nhân gian, giúp họ sám tâm với những
nghiệp lực đã tạo ra. Thông qua các cảnh giới tại cõi trời Địa phủ để giúp cho
các vong linh thấu hiểu được những nghiệp lực mà kiếp sau không vi phạm, thấu
hiểu được việc hành thiện để kiếp sau tinh tấn việc hành thiện. Đặc biệt tại
cõi trời Địa phủ là nơi tu luyện dưỡng nguyên khí cho các vong linh có đủ năng
lượng dương để đảm bảo khi luân hồi họ có đủ sức mạnh để vượt qua các kiếp nạn
khổ đau, nhanh chóng vượt qua hết các kiếp nạn khổ đau trong nhiều kiếp để đắc
được bộ lọc năng lượng cho Tuệ linh hay linh hồn. Nếu không đảm bảo có năng
lượng dương khí là nguyên khí đủ mạnh thì khi luân hồi làm người, họ dễ dàng
chết yểu hoặc không đủ sức mạnh vượt qua được các kiếp nạn khổ đau.
Khi chưa có các dòng đạo, chưa có
cõi trời Địa phủ nào, hoặc hiện nay chúng sinh không theo dòng đạo nào thì
chúng sinh tu hành dưới nhân gian tùy theo nghiệp lực nhẹ hay nặng, tùy theo
phước báo, tùy theo mức độ năng lượng nguyên khí bị suy giảm ít hay nhiều mà sẽ
luân hồi thành súc sinh hay luân hồi làm người. Nếu chúng sinh tạo nghiệp nhẹ
thì được luân hồi đầu thai làm người nếu năng lượng nguyên khí đủ mạnh, nếu
chúng sinh tạo nghiệp nặng thì sẽ phải luân hồi đầu thai làm muông thú lành
hiền để dưỡng lại nguyên khí và trả nghiệp lực cho việc tạo nghiệp kiếp làm
người trước đó. Tất cả việc luân hồi đều do hội đồng biên bản luật của Đấng tạo
hóa vận hành. Như vậy những chúng sinh không theo dòng đạo nào hiện nay, và
những chúng sinh sống tại các kiếp quá khứ khi chưa có cõi trời Địa phủ thì họ
sẽ không có cơ hội được tu luyện sám tâm, không có cơ hội được đúc kết kinh
nghiệm tu hành sau một kiếp, họ không có cơ hội được luyện nguyên khí trước khi
luân hồi. Do đó khi luân hồi kiếp mới họ sẽ không có kinh nghiệm bởi giáo lý
giáo hóa mà nhanh chóng vượt qua được các kiếp nạn khổ đau.
Như vậy cõi trời Địa Phật là cõi
trời do những vị Phật, Bồ tát dùng chân lý, giáo lý để giáo hóa các vong linh,
trợ giúp cho các Tuệ linh và linh hồn có kinh nghiệm vượt qua các kiếp nạn khổ
đau trên con đường tu hành ở nhân gian để nhanh chóng đắc được bộ lọc năng
lượng viên mãn. Cõi trời Địa Phật tuy là cõi tạm cho hành giả trên hành trình
tu hành trong vô lượng kiếp nhưng nó vô cùng quan trọng để giúp hành giả rút
ngắn được hành trình tu hành để nhanh chóng đặc được Hoàn đạo viên mãn.
Cõi trời Địa phủ có 4 hội đồng
quản lý và 3 cảnh sống để tiếp dẫn chúng sinh thoát tục cõi trần trở về Địa phủ
tu luyện trong 3 cảnh sống để tiếp tục hành trình luân hồi đảo kiếp.
I- 4 hội đồng quản lý cõi trời Địa phủ
Cõi trời địa Phật được lập ra 4
hội đồng quản lý để cai quản, tiếp dẫn, giáo hóa vong linh sau khi thoát tục
cõi trần nhân sinh trở về Địa phủ tu luyện và luân hồi kiếp mới. Mỗi một hội
đồng quản lý ở cõi trời Địa phủ có chức năng, nhiệm vụ riêng. Các hội đồng quản
lý dưới Địa phủ vận hành và quản lý cõi trời này rất chặt chẽ bằng chân lý vạn
vật và chân lý giác ngộ của Đức A DI DI ĐÀ và Đức Phật Thích Ca. Đức A DI DI ĐÀ
và Đức Phật Thích Ca sẽ sắc phong hoặc thay đổi các vị trí quản lý trong cõi
trời Địa phủ khi các Tuệ linh cõi trời này có những thay đổi trên con đường tu
hành cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
a) Hội đồng Hoàn đạo
Đây là hội đồng quản lý tối cao
nhất ở cõi trời Địa Phật. Hội đồng Hoàn đạo là những vị Phật quản lý và vận
hành toàn bộ cõi trời Địa Phật.
Hội đồng Hoàn đạo là nơi các vị
phật an trụ và quản lý. Trong hội đồng hoàn đạo thì Tuệ linh nào có chân tu cao
nhất do quá trình tu hành dưới nhân gian đạt được sự giác ngộ và cải tạo thế
giới quan tốt nhất sẽ được sắc phong vào vị trí quản lý cả cõi trời này. Danh
hiệu là Nguyên Linh Địa Phật, nhân gian hay gọi là ngài Diêm Vương. Nguyên Linh
Địa Phật chính là danh hiệu cho vị trí quản lý cõi trời địa phật.
Nhiệm vụ của hội đồng Hoàn đạo:
+ Lưu giữ sổ sinh và sổ tử của
chúng sinh trên nhân gian, ghi chép tất cả nghiệp lực và phước báo của chúng
sinh trong nhiều đời nhiều kiếp tu hành;
+ Tra xét, xét xử, luận công tội
của chúng sinh khi thoát tục cõi trần nhân sinh trở về Địa phủ;
+ Giáo hóa, giảng dạy giáo lý của
chân lý vạn vật và chân lý giác ngộ cho vong linh, đây gọi là phổ độ vong linh;
+ Phổ độ
thuyết pháp cho vong linh khi con cháu trên nhân gian dùng tâm thành kính đảnh
lễ cứu độ gia tiên dòng họ dưới Địa phủ.
b) Hội đồng quan ngũ quỷ thần
Đây là hội đồng quản lý đứng thứ
hai ở cõi trời Địa phủ, thực thi nhiệm vụ quản lý dưới sự điều hành của hội
đồng Hoàn đạo.
Hội đồng
quan ngũ quỷ thần chính là hội đồng các vị Bồ tát. Hội đồng này làm việc dựa
trên sổ tử và dưới sự điều hành của hội đồng Hoàn đạo để thực thi nhiệm vụ để
đi bắt chúng sinh thoát tục cõi trần không phải tuân theo tuổi thọ hay cung số
đã định trong sổ tử.
Nhiệm vụ của hội đồng quan ngũ
quỷ thần:
+ Tiền trảm
hậu tấu đối với chúng sinh tạo nghiệp nặng, tức là đi bắt chúng sinh tạo nghiệp
nặng trở về Địa phủ mà không cần chờ đến hết cung số, không phải báo cáo trước
với hội đồng Hoàn đạo;
+ Thực thi lệnh theo sổ tử để
tiếp dẫn chúng sinh tạo nhiều nghiệp từ kiếp trước mà kiếp này chưa gột rửa
được nghiệp lực trở về Địa phủ. Ví dụ kiếp trước giết người ở tuổi 25, kiếp này
hết 25 tuổi mà chưa cứu người để gột rửa nghiệp thì sẽ bị bắt về, khi đó sẽ bị
tai nạn hoặc bị người khác giết;
+ Đi bắt các vong linh của chúng
sinh chết đường, chết chợ, chết do tai nạn, chết do đột tử trở về Địa phủ;
+ Đặc điểm chung của hội đồng
quan ngũ quỷ thần là bắt vong linh của chúng sinh thoát tục cõi trần trước tuổi
73 và chưa đến cung số đã định trong sổ tử do nghiệp lực từ kiếp trước và hiện
kiếp quá nặng. Vì nếu chúng sinh đạt được mốc 73 tuổi và đến cung số theo sổ tử
thì khi thoát tục cõi trần sẽ do hội đồng quan hành sai tiếp đón về Địa phủ.
Mốc tuổi thọ từ 73 tuổi trở đi là đạt tuổi thọ trên dương gian.
c) Hội đồng quan hành sai
Đây là hội đồng quản lý đứng thứ
ba ở cõi trời Địa phủ, thực thi nhiệm vụ quản lý dưới sự điều hành của hội đồng
Hoàn đạo.
Hội đồng quan hành sai là hội
đồng các vị Bồ tát. Hội đồng này làm việc dựa trên sổ tử và dưới sự điều hành
của hội đồng Hoàn đạo để thực thi nhiệm vụ tiếp dẫn, đón tiếp vong linh của
chúng sinh thoát tục cõi trần nhân sinh tuân theo tuổi thọ và cung số đã định
trong sổ tử.
Nhiệm vụ của hội đồng quan hành
sai: thực thi nhiệm vụ tiếp dẫn, tiếp đón các vong linh thoát tục cõi trần khi
đã đạt và vượt mốc tuổi thọ 73 tuổi và hết cung số theo sổ tử đã định. Việc đón
tiếp và tiếp dẫn chúng sinh thoát tục cõi trần phải tuân thủ theo sổ tử đã định
tuổi thọ để tiếp dẫn về. Khi tiếp dẫn về sẽ giao cho hội đồng hoàn đạo tra xét,
xét xử công tội. Có người thoát tục trước 73 tuổi nhưng do đến cung số đã định
trong sổ tử, nên hội đồng quan hành sai sẽ đi tiếp dẫn, đón tiếp vong linh về Địa
phủ.
d) Hội đồng quan hành chính
Đây là hội đồng quản lý đứng thứ
tư ở cõi trời Địa phủ, thực thi nhiệm vụ quản lý dưới sự điều hành của hội đồng
Hoàn đạo.
Hội đồng quan hành chính là các
vị Bồ tát. Hội đồng này làm việc dựa trên sự điều hành của hội đồng Hoàn đạo
trong việc quản lý các cảnh sống và quản lý sự vận hành bộ máy quản lý của cả
cõi trời Địa phủ.
Nhiệm vụ của hội đồng quan hành
chính:
+ Quản lý cửa khẩu âm dương, cửa
khẩu âm dương là người trên dương gian sau khi thoát tục cõi trần đi về Địa phủ
và vong linh dưới Địa phủ lên luân hồi trên nhân gian;
+ Quản lý vận hành các cửa ngục
trong cảnh sống địa ngục Ngã quỷ;
+ Quản lý vận hành cảnh sống âm,
quản lý vong linh gia tiên của các dòng họ, quản lý cảnh sống lao động tự do,
buôn bán, mưu sinh ở cảnh âm;
+ Quản lý cảnh sống địa phật, đó
là quản lý cảnh sống của các ngôi đồi âm đức của từng gia tiên dòng họ.
Các hội đồng hoạt động và thực
thi nhiệm vụ chặt chẽ và khoa học dưới sự điều hành của ngài Nguyên Linh Địa
Phật trong việc giáo hóa chúng sinh sau khi thoát tục cõi trần nhân sinh và quá
trình luân hồi lên kiếp mới trên nhân gian.
II- Cõi trời Địa
Phật có 3 cảnh sống
Để giáo hóa chúng sinh sau khi
thoát tục cõi trần nhân sinh trở về Địa phủ biết nhìn nhận nghiệp lực đã tạo ra
mà sám tâm, để có kinh nghiệm hành thiện cho kiếp sau, có kinh nghiệm vượt qua
các kiếp nạn khổ đau ở kiếp sau, để luyện nguyên khí đảm bảo cho kiếp mới có
sức mạnh của tâm để nhanh chóng tu hành đắc được bộ lọc năng lượng thì ngài Ngũ
Âm Hóa Đồng đã tạo ra cõi trời Địa phủ với 3 cảnh sống khác nhau. Ba cảnh giới
hay còn gọi là 3 cảnh sống ở cõi trời Địa phủ tương ứng với nghiệp lực, phước
báo, sự giác ngộ của chúng sinh trên nhân gian mà khi thoát tục cõi trần sẽ an
trụ ở cảnh giới tương ứng.
Cõi trời Địa Phật không có ngày
và đêm, các cảnh giới có các tầng năng lượng khác nhau là do năng lượng của
nghiệp lực, năng lượng của chấp ngã và năng lượng giác ngộ của các vong linh
hay Tuệ linh ở mỗi cảnh giới khác nhau mà tạo ra không gian sống có ánh sáng
hay màn đêm khác nhau.
a) Cảnh sống Địa ngục - Ngã
quỷ
Cảnh sống địa ngục - Ngã quỷ là
cảnh sống dành cho các vong linh khi còn sống trên nhân gian tạo nghiệp lực.
Khi thoát tục cõi trần sẽ phải đọa vào 7 đại cửa ngục a tỳ trong cảnh sống địa
ngục - Ngã quỷ.
Cảnh sống địa ngục - Ngã quỷ do
là cảnh sống của những vong linh khi sống tạo nghiệp lực trên nhân gian, mà
nguồn gốc của nghiệp lực là Ngã quỷ, đó là chấp ngã, sân và hận. Cho nên không
khí trong cảnh sống địa ngục và Ngã quỷ bao trùm là màu xám tối, đen tối và màu
đỏ máu nơi các vong linh bị giam giữ trong các cửa ngục. Tầng năng lượng xám
tối, màu đen của nghiệp lực và tầng năng lượng màu đỏ của Ngã quỷ là tầng năng
lượng xấu, do đó những hành giả tu thiền du linh xuống cảnh giới này nếu không
có năng lượng tốt của màu trắng và màu vàng sẽ dễ bị nhiễm âm khí mà sinh khởi
bệnh tật. Thậm chí có những hành giả thiền du linh vào cảnh Ngã quỷ dưới dịa
phủ đã bị các Ngã quỷ giết hại, khi đó con cháu hoặc người thân tưởng người đó
đột tử mà chết. Để thiền du linh xuống các cửa ngục và các cửa Ngã quỷ thì hành
giả phải có tầng năng lượng tốt trong tâm mới có thể an toàn đi tham quan các
cảnh giới nơi Địa phủ.
Trong 7 đại cửa ngục a tỳ sẽ chia
ra làm 6 đại cửa ngục dành riêng cho dòng người Nhân mệnh được hóa thân từ linh
hồn của muông thú và một đại cửa ngục dành riêng cho dòng người Thiên ấn là hóa
thân của các Tuệ linh. Tổng có 72 cửa ngục nhỏ từ 7 đại cửa ngục lớn. Cửa ngục
của dòng người Nhân mệnh gọi là cửa địa ngục với 6 đại cửa lớn và tổng là 54
cửa ngục nhỏ. Cửa ngục của dòng người Thiên ấn là cửa Ngã quỷ với một đại cửa
Ngã quỷ lớn và tổng là 18 cửa Ngã quỷ nhỏ.
Ngoài ra còn có những phòng tạm
giam vong linh trong vòng 49 ngày sau khi thoát tục cõi trần để chờ đến ngày
thứ 49 trên nhân gian sẽ xét xử, luận công tội mà phân vào các cảnh sống khác
nhau. Có những phòng giam dành riêng cho những vong linh thoát tục cõi trần do
nghiệp lực nhưng chưa đến cung số đã định, sẽ phải bị tạm giam đến khi đến cung
số đã định trên nhân gian mới được đưa ra xét xử công tội, sau đó mới phân vào
các cửa địa ngục - Ngã quỷ khác nhau. Ví dụ có người được hưởng dương thọ là 80
tuổi, nhưng do nghiệp lực từ kiếp trước và kiếp này không gột rửa được nghiệp
lực, đến 60 tuổi bị yêu tinh giết chết, do đó quan ngũ quỷ thần về dẫn giải
vong linh xuống phòng giam giữ, tránh yêu tinh khống chế vong linh theo chúng.
Và phải chờ 20 năm sau khi được 80 tuổi theo nhân gian thì hội đồng hoàn đạo
mới xét xử luận công tội mà phân vào các cửa ngục khác nhau.
Sáu đại cửa địa ngục cho dòng
người Nhân mệnh:
Sáu đại cửa địa ngục giam giữ
vong linh sau khi thoát tục cõi trần, trải qua 49 ngày tạm giam và xét xử vào
ngày 49, khi vong linh sống trên nhân gian mà phạm vào các nghiệp lực nhóm tội
tương ứng sẽ phải đọa vào các cửa ngục khác nhau. Nếu vong linh phạm nhiều
nghiệp lực thì sẽ phải trải qua hết tất cả các cửa ngục cho đến khi nào vong
linh nhận thức và sám tâm được nghiệp lực mình đã tạo thì mới được chuyển sang
cảnh sống địa âm. Các cửa địa ngục được sắp xếp từ nhẹ đến nặng như sau:
1- Cửa địa ngục lao động khổ sai:
+ Trong cửa lao động khổ sai được
chia ra làm 9 cửa nhỏ, mỗi cửa tương ứng với nhóm tội mà khi sống vong linh đã
gây ra;
+ Cảnh sống trong cửa ngục lao
động khổ sai là hình ảnh các vong linh phải lao động khổ sai, khuân vác, đập
đá, lao động cật lực không được ăn uống gì khi mà chân tay bị xiềng xích và bị
hình ảnh quỷ đánh đập;
+ Khi sống trên nhân gian mà tạo
các nghiệp lực sau thì vong linh sẽ phải đọa vào cửa địa ngục lao động khổ sai:
lười lao động; chửi rủa đánh đập người lao động, chà đạp nhân phẩm người lao
động; bóc lột, chiếm đoạt sức lao động của người khác.
2- Cửa địa ngục hành xác:
+ Trong cửa địa ngục hành xác
được chia ra làm 9 cửa nhỏ, mỗi cửa tương ứng với nhóm tội mà khi sống vong
linh đã gây ra;
+ Cảnh sống trong cửa ngục hành
xác là một khu vực gồm các con mãng xà, con trăn, con rắn, con thú khổng lồ.
Những vong linh bị ném hay vứt vào trong đó. Những con ác thú đó trườn, truy
đuổi cắn xé thân xác của các vong linh. Cảnh tượng này không ngừng nghỉ và diễn
ra liên tục trong thời gian rất dài;
+ Khi sống trên nhân gian mà tạo
các nghiệp lực sau thì vong linh sẽ phải
đọa vào cửa địa ngục hành xác: nói dối gây thiệt hại về của cải, sức khỏe và
tính mạng người khác; tội lừa đảo; tội trộm cướp; tội chiếm đoạt tài sản người
khác.
3- Cửa địa ngục lao tối lạnh giá:
+ Trong cửa
địa ngục lao tối lạnh giá được chia ra làm 9 cửa nhỏ, mỗi cửa tương ứng với
nhóm tội mà khi sống vong linh đã gây ra;
+ Cảnh sống trong cửa ngục lao
tối lạnh giá là hình ảnh đêm tối lạnh giá, có mưa, có tuyết rơi, những vong
linh bị những mũi tên băng bay xuyên vào tim, những vong linh hoảng loạn chạy
trong đêm tối lạnh giá và bị các con thú khổng lồ truy đuổi để cắn xé ăn thịt,
những vong linh không mặc quần áo bị treo trên cột và bị những con thú nhảy lên
ăn thịt. Khi các vong linh chết rồi lại tỉnh lại và lại bị truy giết đến chết
rồi lại tỉnh lại, quá trình này lặp đi lặp lại trong khoảng thời gian rất dài;
+ Khi sống
trên nhân gian mà tạo các nghiệp lực sau thì vong linh sẽ phải đọa vào cửa địa
ngục lao tối lạnh giá: hành nghề sát sinh; giết hại muông thú làm thú vui;
thông dâm, tà dâm, hiếp dâm; chửi rủa, đánh đập người khác; chà đạp nhân phẩm
người khác.
4- Cửa địa ngục hành hình:
+ Trong cửa địa ngục hành hình
được chia ra làm 9 cửa nhỏ, mỗi cửa tương ứng với nhóm tội mà khi sống vong
linh đã gây ra;
+ Cảnh sống trong cửa ngục hành
hình là hình ảnh ngũ quỷ phanh thây, cảnh vong linh bị truy đuổi và giết chết,
cảnh bị đẩy xuống vực sâu mà chết, cảnh bị đập vào đầu mà chết, cảnh bị giết
chết và phanh xác… Cảnh vong linh bị giết lặp đi lặp lại nhiều lần trong thời
gian rất dài;
+ Khi sống trên nhân gian mà tạo
các nghiệp lực sau thì vong linh sẽ phải đọa vào cửa địa ngục hành hình: giết
hại người khác; giết hại chính mình.
5- Cửa địa ngục hỏa thiêu:
+ Trong cửa địa ngục hỏa thiêu
được chia ra làm 9 cửa nhỏ, mỗi cửa tương ứng với nhóm tội mà khi sống vong linh
đã gây ra;
+ Cảnh sống trong cửa ngục hỏa
thiêu sẽ thấy cảnh vong linh sẽ thấy bị quỷ đuổi bắt và ném vào vạc dầu mà chết
cháy, bị quỷ ném vào núi lửa mà chết cháy, bị đốt chết, bị mũi tên lửa bắn vào
mà chết. Vong linh bị hỏa thiêu chết đi sống lại trong thời gian rất dài;
+ Khi sống trên nhân gian mà tạo
các nghiệp lực sau thì vong linh sẽ phải đọa vào cửa địa ngục hỏa thiêu: đánh
đập, giết hại cha mẹ; đánh đập, giết hại thầy dạy.
6- Cửa địa ngục băng giá:
+ Trong cửa địa ngục băng giá
được chia ra làm 9 cửa nhỏ, mỗi cửa tương ứng với nhóm tội mà khi sống vong
linh đã gây ra;
+ Cảnh trong cửa ngục băng giá
thì được coi là án tử cho các vong linh, vong linh sẽ bị chết và đóng băng vĩnh
viễn trong núi băng, trong dòng sông băng, trong tảng băng;
+ Khi sống trên nhân gian mà tạo
các nghiệp lực sau thì vong linh sẽ phải đọa vào cửa địa ngục băng giá: bán
nước hại dân, tham ô tham nhũng, kích động chiến tranh; kích động xung đột dân
tộc, tiết lộ bí mật quốc gia, phản bội tổ quốc.
Những người Nhân mệnh nếu vi phạm
vào chửi rủa thiên địa, chửi rủa Thánh thần, Phật, Bồ tát, phá đình chùa, phá
mồ mả gia tiên thì sẽ phải đọa hết tất cả lần lượt 6 đại cửa địa ngục rồi mới
được chuyển sang sống cảnh âm.
Một đại cửa Ngã quỷ dành cho dòng
người Thiên ấn:
+ Trong cửa
Ngã quỷ dành cho dòng người Thiên ấn là các Tuệ linh trên các cõi trời xuống
nhân gian tu hành tạo nghiệp lực thì sẽ bị đọa vào trong cửa ngục đặc biệt này.
Cửa Ngã quỷ được cõi trời Địa phủ quản lý và dùng các tầng năng lượng của sự
giác ngộ để giúp cho họ nhanh chóng thấu hiểu nghiệp lực mà chuyển hóa tâm;
+ Cửa Ngã quỷ bao gồm 18 cửa nhỏ:
cửa lao động khổ sai có 3 cửa nhỏ; cửa hành xác có 3 cửa nhỏ; cửa lao tối lạnh
giá có 3 cửa nhỏ; cửa hành hình có 3 cửa nhỏ; cửa hỏa thiêu có 3 cửa nhỏ; cửa
băng giá có 3 cửa nhỏ. Cảnh các cửa ngục của dòng người Thiên ấn đều giống như
các cửa ngục của dòng người Nhân mệnh. Cửa Ngã quỷ chỉ khác so với cửa địa ngục
là mức độ chịu hình phạt nặng hơn, sự giam giữ nghiêm ngặt hơn vì các Ngã quỷ
do nghiệp lực mà hóa thành quỷ nên bản tính rất nguy hiểm. Khi các Tuệ linh bị
đọa trong các cửa ngục này thì họ sẽ hóa thành quỷ và ăn thịt, giết hại nhau,
khi sống lại họ lại lặp đi lặp lại hành động tạo nghiệp khi còn sống trên nhân
gian;
+ Cửa băng giá của dòng người
Thiên ấn sẽ không bị hoại diệt Tuệ linh như cửa địa ngục của dòng người Nhân
mệnh.
Những người Thiên ấn nếu vi phạm
vào chửi rủa thiên địa, chửi rủa Thánh thần, Phật, Bồ tát, phá đình chùa, phá
mồ mả gia tiên thì sẽ phải đọa hết tất cả lần lượt 18 cửa ngục trong Ngã quỷ
rồi mới được chuyển sang sống cảnh âm.
Tất cả các cửa ngục mà có hình
ảnh quỷ đuổi giết vong linh hay Tuệ linh, hình ảnh các con thú dữ giết hại vong
linh hay Tuệ linh, hình ảnh có người đánh đập tra tấn vong linh hay Tuệ linh
đều không phải là các ngài, và cũng không phải có quỷ hay dã thú nào hết. Do
nghiệp lực khi sống trên nhân gian mà năng lượng trong tâm họ tích tụ gốc của
nghiệp lực là chấp ngã, sân, hận thù, và khi về dưới Địa phủ, bằng thần lực của
các vị Phật và Bồ tát đã tạo ra sự phản chiếu ảo ảnh từ chính tâm của các vong
linh hay Tuệ linh mà họ tưởng rằng bị quỷ, quái thú truy giết. Đó là cách lấy
chính Tâm ngã quỷ và hành động tạo nghiệp của các vong linh và Tuệ linh khi còn
sống trên nhân gian mà tạo ra ảo ảnh để răn đe họ kiếp sau không hành động tạo
nghiệp nữa, và cũng là thấu hiểu những khổ đau mà họ gây ra cho chúng sinh
khác.
Tất cả các cảnh tra tấn, truy
giết sẽ bị tiêu tan, vong linh và Tuệ linh sẽ thoát ra khỏi các cửa ngục nếu họ
thấu hiểu nghiệp lực và định tâm, rồi nguyện tu hành theo chân lý vạn vật và
chân lý giác ngộ của ngài A DI DI ĐÀ và Đức Phật Thích Ca thì họ sẽ được chuyển
sang cảnh âm và được đi học đạo ở cõi trời địa Phật.
Khi các vong linh và Tuệ linh
đang bị đọa trong Địa ngục - Ngã quỷ thì họ tuyệt đối không thể nhận những lễ
vật gì do con cháu trên nhân gian cúng lễ dâng tiến. Mỗi năm có 3 ngày được ngài
Nguyên Linh đại xá cho vong linh và Tuệ linh về nhân gian thăm con cháu và nhận
lễ vật do con cháu cúng lễ dâng tiến đó là ngày 13, 14, 15 tháng 7 Âm lịch.
Thông qua 3 ngài đại xá này, các chư vị Phật và Bồ tát muốn các vong linh và
Tuệ linh về nhắn nhủ con cháu hãy hành thiện giúp người, phổ độ gia tiên được
siêu thoát khỏi cảnh địa ngục - Ngã quỷ. Khi mỗi dòng họ hay gia đình mà có
vong linh bị đọa trong các cửa ngục thì gọi là động âm, tức là vong linh bị
động tâm, chưa định thần nên con cháu sẽ không được yên theo do năng lượng của
gia tiên tác động vào mong con cháu phổ độ gia tiên siêu thoát khỏi cảnh địa
ngục - Ngã quỷ. Khi mỗi dòng họ mà có nhiều vong linh bị đọa trong các cửa ngục
- Ngã quỷ thì trên dương gian con cháu sẽ gặp nhiều khó khăn trở ngại trong
cuộc sống, thậm chí có nhiều người chết trẻ, đây là nghiệp cửu trùng của cả
người sống và người đã chết trong dòng họ đó tích tụ lại mà nhận quả báo.
b) Cảnh sống địa âm
Đối tượng vong linh, Tuệ linh
được sống cảnh địa âm:
+ Cảnh sống địa âm là cảnh
sống dành cho các vong linh khi sống trên dương gian không vi phạm hay tạo
nghiệp lực gây tổn thương cho chúng sinh trời người;
+ Vong linh hay Tuệ linh khi
sống tuy không tạo nghiệp lực những vẫn còn chấp ngã, sân, hận nên phải sống
trong cảnh sống địa âm;
+ Các vong linh, Tuệ linh sau
khi được siêu thoát khỏi các cửa ngục thì sẽ được chuyển sang sống cảnh âm để
được lao động tự do và tu học các lớp giảng đạo Phật của hội đồng Hoàn đạo;
Tầng năng lượng của cảnh sống
địa âm là màu xám sáng như chiều tối mà mặt trời đã lặn. Không khí và không gian ảm đạm và yên
tĩnh. Sự ảm đạm và không gian tỏa năng lượng màu xám sáng là do các vong linh
và Tuệ linh vẫn còn chấp ngã, sân, hận nên mới tỏa ra không gian như vậy.
Cảnh sống địa âm có:
+ Nhà tranh mái ngói, nhà
tranh mái lá, mỗi ngôi nhà chỉ vài mét vuông. Không có nhà tầng, nhà lầu, xe
hơi, xe máy, xe đạp hay bất kỳ phương tiện khoa học kỹ thuật nào ở cõi trời Địa phủ;
+ Có chợ quê, có cánh đồng
lúa, có cảnh lao động tự do buôn bán và sản xuất nông nghiệp, có thầy đồ dạy
học, có thầy bốc thuốc … có đồi núi và ao hồ;
+ Có ngân hàng hay còn gọi là
kho khố Địa phủ. Các ngài ở hội đồng quan hành chính sẽ phát chẩn cho các vong
linh được chuyển từ địa ngục - Ngã quỷ ra sống cảnh âm, vong linh thoát tục cõi trần
được sống cảnh âm sau 49 ngày. Họ được cấp phát nhà cửa và công cụ lao động, tư
trang quần áo và những đồ dùng cần thiết cho cuộc sống ở cảnh địa âm. Các vong
linh hay Tuệ linh khi sống cảnh sống âm sẽ không nhận được bất cứ đồ lễ gì từ
con cháu trên nhân gian cúng lễ, tiền vàng, nhà lầu, xe cộ… đều không thể gửi
được đến cõi trời Địa phủ; hoặc khi con cháu dâng lễ thì vong linh cũng chỉ
nhận dòng năng lượng hành thiện hay tạo nghiệp hoặc năng lượng chấp ngã của con
cháu chứ không ăn hay thụ hưởng được đồ lễ;
Cảnh sống địa âm là dành cho
các vong linh và Tuệ linh khi sống trên nhân gian có trí tuệ u mê mà chấp ngã,
sân hận, nhưng chưa tạo nghiệp lực. Do đó khi thoát tục cõi trần nhân sinh trở
về Địa phủ sống cảnh
sống âm, họ cũng vẫn còn u mê và tâm vẫn còn chấp ngã. Các vong linh vẫn đòi
hỏi con cháu cúng lễ nhiều, vẫn hay chấp nhặt người thân trên nhân gian. Sự
chấp ngã lâu hay nhanh giác ngộ của vong linh và Tuệ linh lại phụ thuộc vào
việc tu hành của con cháu và người thân trên dương gian.
Để các vong linh và Tuệ linh
nhanh giác ngộ để chuyển sang cảnh sống địa phật thì con cháu trên nhân gian và
vong linh, Tuệ linh ở cảnh địa âm phải thực hiện như sau:
+ Vong linh, Tuệ linh ngoài
việc lao động, sinh hoạt ở cảnh sống địa âm sẽ phải tham gia các lớp học đạo,
học giáo lý do hội đồng Hoàn đạo giảng dạy;
+ Con cháu trên nhân gian phải
hành thiện giúp đỡ chúng sinh; làm lễ phổ độ gia tiên để hội đồng hoàn đạo
thuyết pháp giảng giải cho cả gia tiên dưới Địa phủ; con cháu có khả năng
thiền định xuống dưới Địa
phủ nhờ hội đồng Hoàn
đạo triệu tập gia tiên mà thuyết giảng chân lý vạn vật và chân lý giác ngộ để giúp gia
tiên được siêu thoát sang cảnh địa Phật; con cháu không đốt nhiều hoặc không
đốt tiền vàng mã, vì các vong linh không thể nhận được thứ gì cả; không nên lễ
bái cầu xin công danh hay tiền tài từ vong linh gia tiên, bởi họ đang cầu xin
con cháu hành thiện để họ được nhận dòng năng lượng hành thiện đó mà giúp họ
được siêu thoát sang cảnh địa Phật;
+ Khi con cháu trên nhân gian
hành thiện, giúp đỡ chúng sinh thì năng lượng hành thiện đó sẽ được chuyển cho
gia tiên khi ta tưởng nhớ, khi ta thắp hương tri ân gia tiên. Khi ta tri ân và
thắp hương tưởng nhớ bằng tâm đức hành thiện có được sẽ giúp cho gia tiên dưới Địa
phủ nhận được năng lượng đó mà gột rửa được chấp ngã. Khi đó các ngài dưới hội
đồng quan hành chính sẽ phát chẩn nhiều cho gia tiên, nhưng vì gia tiên đã giác
ngộ nên không nhận những đồ phát chẩn, họ sẽ được chuyển sang cảnh địa Phật để
tu luyện dưỡng nguyên khí. Nhưng khi con cháu trên nhân gian làm nhiều việc ác,
tạo ra nhiều ác nghiệp thì gia tiên dưới Địa phủ sẽ chấp vào đó mà không thể
giác ngộ được, họ sẽ luẩn quẩn theo Tâm ngã quỷ của con cháu, luẩn quẩn theo
nghiệp của con cháu. Cho dù con cháu trên nhân gian có đốt nhiều vàng mã, cúng
lễ to đến mấy thì gia tiên không nhận được một thứ gì hết;
Tuệ linh và
linh hồn tồn tại và phát triển dựa trên các dòng năng lượng chứ không phải là
vật chất. Do đó nếu gia tiên nhận được các tầng năng lượng hành thiện tích đức
từ con cháu thì họ sẽ nhanh giác ngộ mà siêu thoát lên kiếp người mới, nếu gia
tiên nhận được các tầng năng lượng nghiệp lực từ con cháu thì họ sẽ đọa trong
cửa ngục và cảnh âm lâu dài mà khó được giác ngộ để siêu thoát.
c) Cảnh sống địa Phật
Đối tượng vong linh, Tuệ linh
được sống cảnh địa Phật:
+ Các vong linh được
chuyển từ cảnh địa âm sau khi học đạo và được giác ngộ không còn chấp ngã, sân,
hận nữa;
+ Các vong linh khi sống trên
nhân gian không có chấp ngã, sân, hận, không tạo nghiệp, giúp đỡ được nhiều
người, nhưng chưa đắc các phẩm vị nên sau khi thoát tục cõi trần thì họ sẽ được
chuyển sang cảnh địa Phật
để tu luyện nguyên khí chờ ngày đầu thai làm người kiếp mới;
Cảnh sống địa Phật có các ngọn đồi thấp, thoai
thoải, có nhiều cây xanh trùng trùng điệp điệp như bất tận. Mỗi một gia tiên
dòng họ sẽ được sinh sống và tu luyện trên một ngọn đồi, được gọi là ngọn đồi
âm đức của mỗi gia tiên dòng họ. Trong mỗi ngọn đồi âm đức thì mỗi một vong linh,
Tuệ linh sẽ có các nấm đất rộng khoảng 1 mét vuông để ngồi hành thiền và nghe
các vị Phật giảng đạo để
luyện nguyên khí chờ ngày đầu thai kiếp mới.
Tầng năng lượng chung cho cảnh
sống địa Phật là màu vàng
nhạt bao trùm toàn bộ cảnh địa Phật. Tuy nhiên, mỗi một ngôi đồi của gia tiên dòng họ lại có tầng
năng lượng khác nhau, có gia tiên dòng họ thì có khí vàng rực rỡ và cỏ cây xanh
tốt, có gia tiên dòng họ thì chỉ có khí trắng và cỏ cây tươi tốt, có gia tiên
thì có khí xám đen và đồi núi bị sạt lở, có gia tiên thì không có cỏ cây và khí thì màu đen
đỏ.
Âm đức dòng họ gia tiên được
thể hiện thông quá khí sắc năng lượng, sự tươi tốt của cây cối tại mỗi ngôi đồi
âm đức. Dòng họ nào có âm đức tốt là ngôi đồi âm đức có khí vàng, trắng vàng,
trắng, có cỏ cây xanh tốt, có nhiều cây cổ thụ. Dòng họ nào mà âm đức kém thì
ngôi đồi âm đức bị sạt lở,
khí màu xám, đen, đỏ, có cây không xanh tốt và không có cây cổ thụ. Dòng họ sắp
đi đến diệt vong thì ngôi đồi âm đức có màu đỏ máu, đen nhiều, đồi âm đức bị
sụt, cỏ cây bị cháy hoặc chết. Ngôi đồi nào có nhiều khí vàng thì dòng họ đó có
các vị Phật hóa thân xuống
và đang hành đạo rất tốt. Ngôi đồi nào có khí trắng và phớt vàng thì dòng họ đó
có các vị Bồ tát hóa thân xuống đang hành đạo tốt. Ngôi đồi nào có khí sắc màu
tím, màu hồng, màu xanh thì dòng họ đó có các bậc Thánh nhân hóa thân xuống cứu
giúp dân tộc. Ngôi đồi nào có màu đỏ máu thì con cháu có người tâm hóa quỷ đang
hại người, hại dân tộc, hại chúng sinh. Ngôi đồi nào có khí đen thì con cháu
đang tạo nhiều nghiệp lực.
Thông qua ngôi đồi âm đức của
gia tiên dòng họ mà biết được con cháu dòng họ đang hành thiện hay tạo nghiệp.
Con cháu muốn giúp cho âm đức dòng họ được nâng cao và các vong linh gia tiên
nhanh được siêu thoát thì con cháu phải hành thiện giúp người hoặc thiền định
xuống Địa phủ giảng chân
lý vạn vật và chân lý giác ngộ để truyền sự giác ngộ đó gia hộ cho gia tiên
nhanh siêu thoát.
III- Hành trình thoát tục cõi trần nhân
sinh trở về Địa phủ và luân hồi kiếp mới
Hành trình một vòng luân hồi
của một chữ nhân từ khi thoát tục cõi trần, trở về Địa phủ, sống trong các cảnh
giới và luân hồi lên nhân gian đầu thai kiếp mới sẽ trải qua quy trình như sau:
Bước
1:
Chữ Nhân là con người thoát
tục cõi trần nhân sinh sẽ chia ra làm hai trường hợp:
+ Trường hợp 1, chữ Nhân thoát tục cõi trần
nhân sinh đúng cung số bản mệnh đã định hoặc thoát tục cõi trần nhân sinh qua
mốc 73 tuổi. Ở trường hợp này có biểu hiện khi thoát tục cõi trần nhân sinh là
thoát tục ở nhà do tuổi già, do bệnh hoặc ở bệnh viện do bệnh;
+ Trường hợp 2, chữ Nhân thoát tục cõi trần
chưa đến cung số bản mệnh đã định hoặc chưa đạt tuổi thọ 73 tuổi. Ở trường hợp
này có biểu hiện khi thoát tục cõi trần nhân sinh là thoát tục do tai nạn, do
đâm chém giết hại nhau, do chiến tranh, do đột tử dù ở nhà hay ở nơi khác.
Bước
2:
Hội đồng quan hành
sai sẽ tiếp đón vong linh ở trường hợp 1 của bước 1; hội đồng quan ngũ quỷ thần
sẽ bắt vong linh ở trường hợp 2 của bước 1. Trường hợp thoát tục cõi trần nhân
sinh do tự tử sẽ không được các ngài đón về Địa phủ. Có nhiều trường hợp do nghiệp
nặng bị tinh tà bắt và chúng giam cầm các vong linh tại những nơi tai nạn thì
cũng không được về Địa
phủ.
Bước
3:
Vong linh sẽ bị giam vào phòng tạm giam trong vòng 49 ngày để chờ xét xử công
tội đã tạo ra khi sống trên nhân gian. Trong thời gian 49 ngày vong linh vẫn
được các quan dẫn về nhà để quên đi nỗi nhớ người thân và thông báo cho người
thân qua giấc mơ nếu nghiệp của vong linh nặng.
Bước
4:
Xét xử vong linh ở
ngày thứ 49 sau khi vong linh thoát tục cõi trần. Nếu vong linh tạo nghiệp nặng
đều phải đọa vào 72 cửa ngục a tỳ. Nếu vong linh không tạo nghiệp lực nhưng còn
chấp ngã thì sẽ được sống cảnh sống âm. Nếu vong linh không tạo nghiệp, không
chấp ngã, có sự giác ngộ và hành thiện thì sẽ được sống cảnh địa Phật. Trường hợp vong linh khi
sống mà thoát tục chưa đến cung số bản mệnh thì sẽ phải bị giam giữ cho đến tuổi thọ đã
định thì mới đưa ra xét xử. Ví dụ cung số định tuổi thọ là 80 tuổi, nhưng bị
đột tử ở tuổi 60, do đó sẽ mất 20 năm tính theo dương gian bị giam cầm đến khi
thọ 80 mới đưa ra xét xử.
Bước
5:
Chuyển vong linh vào
các cảnh sống tương ứng với nghiệp lực hay phước báo khi còn sống trên nhân
gian.
Vong linh sẽ phải đọa vào các
cửa ngục Ngã quỷ do nghiệp lực tạo ra khi còn sống trên nhân gian.
Vong linh
sẽ được sống cảnh âm sau khi vượt qua thời gian đọa trong cửa ngục hoặc sau 49
ngày thoát tục được sống cảnh địa âm.
Vong linh sẽ được sống cảnh
địa Phật tu luyện chờ
ngày đầu thai do được chuyển từ cảnh sống địa âm sang, hoặc sau 49 ngày thoát tục do
phước báo mà được sống cảnh địa Phật.
Bước
6:
Được luân hồi lên
kiếp mới. Sau thời gian tu luyện trong cảnh địa Phật đạt được dòng năng lượng
dương khí đảm bảo duy trì cho thân tướng trên nhân gian thì các vong linh sẽ
được luân hồi. Tùy theo nghiệp lực khi sống mà vẫn phải đọa thành súc sinh, tùy
theo phước báo mà được luân hồi làm người.
Do năng
lượng của chúng sinh khi sống trên nhân gian có chấp ngã, sân hận, tạo nghiệp
lực, phước báo chưa nhiều nên sau khi thoát tục thì Tuệ linh hoặc linh hồn chưa
thể định thần, không đủ năng lượng để đi về các cõi. Do đó cõi trời Địa phủ đã
có các hội đồng thực thi nhiệm vụ hỗ trợ các vong linh nhanh chóng đi được vào
quy trình của vòng luân hồi. Đồng thời giảm thiểu các Tuệ linh hoặc linh hồn bị
quỷ đến bắt sau khi chân tu thoát tục cõi trần nhân sinh.
Dù là sau một vòng luân hồi,
chữ Nhân đọa thành súc sinh
hay tiếp tục làm người thì đó là quy trình tuần hoàn để các Tuệ linh và linh
hồn cần phải nhanh chóng trải qua. Bởi thông qua các khổ đau và kiếp nạn thì
các Tuệ linh và linh hồn mới có cơ hội cải tạo Trụ linh của Tuệ linh thành bộ
lọc năng lượng. Do đó sau khi vong thoát tục cõi trần nhân sinh, vong linh
không được về Địa
phủ để đúng quy trình luân hồi thì con đường tu hành của họ trong vô lượng kiếp
còn dài. Bởi có những Tuệ linh sau khi thoát tục cõi trần vì nghiệp lực tự tử,
khi thiền định gặp họ đang đọa trong điền thổ đất thì họ đã trải qua gần 1000
năm. Như vậy việc luân hồi của họ bị gián đoạn quá lâu. Việc các thầy pháp, thầy tu, hành giả
dùng pháp thuật giữ vong để thực hiện mục đích riêng là đang tạo nghiệp cho
chính họ và tạo nghiệp gây cho các vong linh không được đi đúng theo quy trình
luật luân hồi.
Khi các
hành giả đắc các phẩm vị từ bậc Thánh nhân
đến quả Phật do giác ngộ thì sẽ không phải
trở về Địa phủ sau khi thoát tục cõi
trần. Họ sẽ được trở về trên các cõi trời mà họ xuống để luyện nguyên thần và
tiếp tục xuống tu hành. Khi họ thoát tục cõi trần nhân sinh sẽ được tứ trụ
nguyên thần trên các cõi trời đó xuống đón về.
IV- Phương pháp hóa độ cho vong linh nhanh luân hồi đảo kiếp sau khi
thoát tục cõi trần nhân sinh
Hóa độ chính là siêu thoát cho
vong linh sau khi thoát tục cõi trần nhân sinh để nhanh chóng được luân hồi đảo
kiếp. Siêu thoát sẽ có 4 mức độ như sau:
Mức
độ 1: Siêu thoát về Địa phủ sau khi thoát tục cõi
trần nhân sinh. Ở mức độ này chỉ cần vong linh được trở về Địa phủ, dù là trong cửa ngục
Ngã quỷ thì cũng đã là được siêu thoát về Địa phủ. Bởi có nhiều vong linh
bị đọa trên nhân gian vì nhiều nguyên nhân nên không được trở về Địa phủ, họ không thể bước được
vào vòng luân hồi để tiếp tục tu hành cải tạo Tuệ linh. Dù là vào địa ngục Ngã
quỷ thì cũng là đã được vào quy trình luân hồi, nên cũng coi là điều tốt ban
đầu.
Mức
độ 2: Siêu thoát khỏi cảnh
địa ngục - Ngã quỷ ở dưới Địa phủ sang cảnh sống âm. Đó
là đẩy nhanh tốc độ giúp vong linh thấu hiểu nghiệp lực đã tạo trên nhân gian
khi sống, giúp vong linh nhanh chóng định thần để tâm không còn bấn loạn mà bị
tra tấn hành hình nữa.
Mức
độ 3: Siêu thoát khỏi cảnh
địa âm để sang cảnh địa Phật. Đó là đẩy nhanh quá trình diệt chấp ngã của vong
linh để chuyển sang cảnh tu luyện nguyên thần, chờ ngày luân hồi đầu thai
kiếp mới.
Mức
độ 4: Siêu thoát khỏi cõi
trời địa Phật để luân hồi lên
kiếp mới. Dù có đầu thai thành súc sinh hay tiếp tục làm người thì vẫn là rất
tốt và đáng mừng, vì họ đang được bước những bước dài trên con đường tu hành, phải trải qua nhiều kiếp để
cải tạo được bộ lọc năng lượng viên mãn cho Tuệ linh hay linh hồn.
Phương pháp hóa độ cho vong
linh sau khi thoát tục cõi trần nhanh được luân hồi sang kiếp mới:
+ Mỗi chúng sinh khi còn sống
nên học tập, nghiên cứu chân lý vạn vật, chân lý giác ngộ, rời xa nghiệp lực và hành thiện
giúp người. Sau thoát tục cõi trần sẽ được sống cảnh địa Phật và luân hồi ngay. Cứ đạt
được các thành tựu đó thì chỉ cần vài kiếp tinh tấn tu hành sẽ đắc được bộ lọc
năng lượng cho Tuệ linh để trở về với phẩm vị Phật vị và quả Không;
+ Mỗi chữ Nhân là bậc con cháu,
nên học tập nghiên cứu chân lý vạn vật và chân lý giác ngộ để thiền định đến
cõi trời Địa phủ thuyết pháp
cho gia tiên trong tất cả các cảnh giới để gia tiên nhanh được siêu thoát từng
cảnh giới. Nếu không có khả năng thuyết pháp thì dùng Chân tâm tấu thiên địa và
nhờ hội đồng hoàn đạo ở cõi trời Địa phủ giảng đạo cho gia tiên;
+ Con cháu trên nhân gian phải
hành thiện, không hành nghề tạo nghiệp thì sẽ thúc đẩy cho gia tiên nhanh định thần và
giác ngộ để siêu thoát các cảnh giới.
Như vậy cõi trời địa Phật là cõi trời của chư vị
Phật và chư vị Bồ tát giáo hóa vong linh của chúng sinh sau khi thoát tục cõi
trần nhân sinh. Đây là cõi trời cần phải đến để cho trời người tu hành dưới
nhân gian nhanh chóng có kinh nghiệm vượt qua được các kiếp nạn khổ đau, nhanh
chóng hoàn thành các kiếp tu hành với việc đắc được bộ lọc năng lượng. Cõi trời
địa Phật là cõi trời
nghiêm minh của thực thi luật nhân quả và cũng là cõi trời của tâm từ bi vô
lượng. Các ngài đã tạo ra và gieo vô số duyên để trợ giúp cho chúng sinh và
vong linh nhanh đạt được sự giác ngộ. Do đó chúng sinh phải thấu hiểu và cùng
hợp duyên với các ngài ở cõi trời Địa phủ, dẫn dắt và cứu giúp hết thảy trời người vượt
qua hết các kiếp nạn khổ đau bằng hai chân lý của Đức Ngũ Âm Hóa Đồng.